Tài liệu: Sử ký Tư Mã Thiên, một tác phẩm văn học sử vĩ đại đầu tiên của loài người

Tài liệu
Sử ký Tư Mã Thiên, một tác phẩm văn học sử vĩ đại đầu tiên của loài người

Nội dung

SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN, MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC SỬ VĨ ĐẠI

ĐẦU TIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI

 

Đối với văn hóa thế giới, quyển Sử ký của Tư Mã Thiên chiếm một địa vị đặc biệt. Nó là công trình sử học lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những quyển sử có tiếng nhất của thế giới. Nhưng một điều còn làm chúng ta ngạc nhiên hơn, là công trình khoa học lớn lao ấy đồng thời lại là một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại. Người Trung Hoa xem nó là tác phẩm lớn nhất về văn xuôi trong nền văn học cổ Trung Hoa, và xem nó là tác phẩm cổ điển ngang hàng với thơ của Đỗ Phủ.

Sử ký là cả một thế giới. Nó làm thỏa mãn tất cả mọi người. Người nghiên cứu sử tìm thấy ở đấy một kho tài liệu vô giá, chính xác, với một giá trị tổng hợp rất cao. Nhà nghiên cứu tư tưởng tìm thấy qua Sử ký ''Một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời Cổ đại”. Người bình thường tìm thấy vô số các hình tượng điển hình, nhiều câu chuyện hấp dẫn, những con người đầy sức sống mãnh liệt. Họ thấy quá khứ sống lại. Và không phải chỉ có thế người nghiên cứu văn học còn tìm thấy ở đấy một tác phẩm văn học, mãi mãi tươi trẻ như sự sống, họ thấy ở đấy một tâm hồn, một tâm sự đau xót đầy sức mạnh của thơ trữ tình, "một tập Ly tao không vần”, như lời đánh giá của Lỗ Tấn.

Quyển Sử ký như tác giả nói, không phải viết ra để mưu danh tiếng trước mắt. Sau khi ông chết cũng không mấy ai biết được nó. Quyển này được cất kỹ mãi đến thời cháu ngoại của ông là Dương vận, thời Tuyên Đế, mới được công bố. Ngoài Sử ký, ông còn làm một công việc khác cũng rất quan trọng. Năm -104, ông cùng Công Tôn Khanh Hồ Toại sửa lại lịch cũ, chế định Hán lịch. Âm lịch còn dùng đến ngày nay là công trình của nhóm này trong đó ông đóng vai trò chủ chốt.

*

*          *

Sử ký là một tác phẩm đồ sộ, tất cả 52 vạn chữ, 130 thiên, gồm năm phần: Bản kỷ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện.

Bản kỷ chép sự tích của các Đế vương, gồm có:

1. Ngũ đế (Hoàng Đế, Chuyên Húc, Cốc, Nghiêu, Thuấn).

2. Hạ, Thương, Chu, mỗi thời đại một bản kỷ.

3. Tần hai bản kỷ, một bản kỷ từ khi có nước Tần đến Tần Thuỷ Hoàng, một bản kỷ về Tần Thuỷ Hoàng.

4. Hạng Vũ.

5. Các bản kỷ về nhà Hán: Cao Tổ, Lã Hậu, Hiếu Văn, Hiếu Cảnh, Hiếu Vũ.

1. Bản kỷ: Tất cả có 12 bản kỷ nhưng hiện nay thiếu mất bản kỷ: Hiếu Cảnh Hiếu Vũ. Vương Túc đời Ngụy nói:“Vũ Đế nghe nói ông ta viết Sử ký bèn lấy bản kỷ của Hiếu Cảnh và của mình xem, giận lắm vứt đi cho nên phần này chỉ có mục đề thôi không viết gì”. Về sau Chử Toại Lương lấy những phần này ở quyển Hán Thư của Ban Cố để điền vào cho đủ. Điều đó không phải không có lý vì Tư Mã Thiên có thái độ rất nghiêm khắc đối với Vua chúa, cũng không kiêng nể gì vị Vua đang sống mà ông đã công kích mãnh liệt trong phần Phong thiện thư. Chính vì thế, Vương Doãn đời hậu Hán gọi Sử ký là một quyển “bảng thư” (một quyển sách phỉ báng). Mục đích của bản kỷ là chép lại sự việc của những người, những nước có tác dụng chi phối cả thiên hạ. Ngay ở đây, trong cách sắp đặt của ông cũng có nhiều điều đời sau không dám nghĩ đến. Ông chép riêng lịch sử nước Tần trước Tần Thuỷ Hoàng thành một bản kỷ vì trong thời Chiến quốc, nước Tần là nước chi phối vận mệnh của tất cả  các nước. Ông làm bản kỷ Lã Hậu mặc dầu Lã Hậu chỉ là Thái hậu chứ không trị vì trên danh nghĩa, trái lại ông không làm bản kỷ của Huệ Đế, mặc dù trên danh nghĩa. Huệ Đế vẫn là Vua. Đó là vì tuy Huệ Đế làm Vua nhưng tất cả quyền hành đều nắm trong tay Lã Hậu. Đặt một người đàn bà lớn địa vị kỷ cương một nước, là điều không một sử gia nào đời sau dám làm”. Táo bạo hơn, ông dành cho Hạng Vũ những trang đẹp nhất mặc dù Hạng Vũ chưa hề làm Đế, là kẻ thù của nhà Hán. Đó cũng là vì ông tôn trọng sự thực khách quan. Hạng Vũ tuy về danh nghĩa không phải là người làm chủ các chư hầu đánh lại nhà Tần (đó là địa vị của Nghĩa Đế); nhưng trong thực tế, người có công lớn nhất trong việc tiêu diệt nhà Tần, người phong đất cho chư hầu cai trị thiên hạ trong năm năm chính là Hạng Vũ. Các bản kỷ cung cấp cho người đọc cái nhìn khái quát về từng thời đại để sau đó đi sâu vào từng sự kiện và từng nhân vật.

2. Biểu: Dùng để có cái nhìn đối chiếu các sự kiện hoặc căn cứ vào niên đại, hoặc căn cứ vào sự tương quan đồng thời giữa các bước. Tư Mã Thiên lập ra mười biểu gồm có:

1. Thế biểu thời tam đại.

2. Niên biểu mười hai nước chư hầu

3. Niên biểu sáu nước thời Chiến Quốc.

            4. Nguyệt biểu những việc xảy ra thời Hán, Sở.

5. Niên biểu các nước chư hầu từ thời Hán.

6. Niên biểu các công thần của Hán Cao Tổ.

7. Niên biểu các nước chư hầu thời Huệ Đế và Cảnh Đế.

8. Niên biểu các nước chư hầu từ niên hiệu Kiến Nguyên.

9. Niên biểu các vị Vương thời Vũ Đế.

10. Niên biểu các danh thần từ khi nhà Hán lên ngôi.

Những bản biểu là những công trình khoa học rất quý ghi chép năm, tháng, biến cố, giúp cho các nhà sử học hiểu được vị trí của từng sự kiện và sự tương quan của nó về thời gian cũng như về không gian bởi các sự kiện khác, đặc biệt là ở trong một nước mênh mông lại chia cắt phân tán như Trung Quốc cổ đại.

3. Thư: Lịch sử một nước chủ yếu là lịch sử của những thiết chế của nó. Tư Mã Thiên nhận thấy điều đó nên viết tám “thư” dành cho tám mặt. Điều này cũng biểu hiện rằng, ông có một kiến thức bách khoa. Tám thư ấy là:

1. Lễ thư

2. Nhạc thư

3. Luật thư

4. Lịch thư

5. Thiên quan thư

6. Phong thiện thư

7. Hà Cừ thư

8. Bình chuẩn thư

Phần này rất quý về mặt nghiên cứu. Tác giả nêu rõ sự biến đổi, những cống hiến về lễ, nhạc, luật lệ, việc làm lịch, thiên văn, v.v... qua các thời đại. Điều này làm chúng ta hết sức ngạc nhiên là ông có những hiểu biết chính xác về mọi mặt và ở đâu ông cũng có những nhận xét tổng quát rất thấu đáo. Thiên Phong thiện thư nói về những việc mê tín, cúng tế của Vua chúa với một giọng chua chát. Thiên Hà Cừ Thư nói về các con sông đào ở Trung quốc; thiên Bình chuẩn thư nói về kinh tế. Những thiên này viết chính xác đến nỗi, người đời sau thường dựa vào đó để đính chính những sai sót trong các sách cổ nói về những thiết chế xã hội. Chúng làm ta thấy tác giả có một cái nhìn duy vật vào lịch sử và thấy tầm quan trọng của những sự kiện kinh tế, khoa học, văn hóa đối với lịch sử một nước. Rất tiếc vì phạm vi quyển tuyển tập hạn chế, chỉ có thể giới thiệu được thiên Bình chuẩn thu và do đó, không thể nào nêu lên được một cái nhìn toàn diện của một bộ óc vĩ đại.

4. Thế gian: Phần thế gian bao gồm 30 thiên, chủ yếu nói đến lịch sử các chư hầu, chẳng hạn các nước Tề, Lỗ, Triệu, Sở v.v. . . ; những người có địa vị lớn trong quý tộc như các Thái Hậu; những người được phong một nước, Chu Công, Thiệu Công và những người có công lớn như Trương Lương, Trần Bình v.v. . . Đáng chú ý nhất, là tác giả xếp vào thế gian hai người thường dân không hề có một tấc đất phong. Đó là Khổng Tử, một người có địa vị đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc và Trần Thiệp, anh chàng cố nông đã cầm đầu  cuộc nông dân khởi nghĩa đầu tiên của lịch sử dân tộc Hán. Cách nhìn như vậy chứng tỏ một tầm mắt khác thường.

5. Liệt truyện: Danh từ này do chính tác giả đặt ra. Phần những sự việc rất khác nhau. Đáng để ý trước hết là phần liệt truyện dành cho các nước ở ngoài địa bàn Trung Quốc mà ông là người đầu tiên đưa vào lịch sử với tính cách những bản khái quát đứng đắn và khoa học (Nam Việt, Đông Việt, Triều Tiên, Tây Di, Đại Uyển, Hung Nô). Cố nhiên một phần liệt truyện sẽ dành cho những người tai mắt trong xã hội cũ như các danh tướng (Mông Điểm, Lý Quảng, Vệ Thanh), những người làm quan to (Trương Thích, Chí, Công Tôn Hoằng v.v. . .). Điều đáng chú ý nhất ở đây là ông đã nhìn thấy vai trò to lớn của những con người bình thường, tuy không có chức tước gì nhưng có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với cả dân tộc. Đó là những du hiệp, những thích khách, trọng nghĩa khinh tài mà ông đã ghi lại trong những trang sôi nổi Thích khách liệt truyện, Du hiệp liệt truyện. Đó là nhà tư tưởng mà tác phẩm của ông đã ghi lại cuộc đời hành trang và đánh giá học thuyết (Lão Tử, Trang Tử, Tuân Khanh v.v...). Đó là những nhà văn như Khuất Nguyên, Tư Mã Tương Như mà ông nêu lên giá trị và nhận xét về nghệ thuật. Đó là những thầy thuốc; thầy bói, thậm chí những anh hề mà trong con mắt của ông, lời nói có thể xếp vào Lục Kinh. Và cố nhiên một con người yêu nhân dân và sự thật như Tư Mã Thiên không thể nào quên những tên sâu, mọt, đàn áp bóc lột dân chúng, những bọn ''khốc lại'' chỉ lo a dua nhà Vua, tàn sát dân lành; hay bọn ngoại thích lộng quyền, và vô số các nhân vật ti tiện mà ông mạt sát bằng những lời phẫn nộ.

Thế giới của Tư Mã Thiên bao la như vậy! Quy mô của tác phẩm làm ta ngợp, bút lực của tác giả làm ta sợ. Đối với những người yêu văn học Trung Quốc, tác phẩm đưa đến một cảm giác rất lạ. Ở đây có cái biến ảo của Nam Hoa Kinh, có cái rạch ròi của Hàn Phi Tử có cái hoa lệ của Tả Truyện, có cái nghiêm khắc của Xuân Thu. Nhưng còn một cái nữa mà văn học từ Hán trở về trước (trừ Kinh Thi) không thấy có, đó là ý thức bám chắc vào sự thực, không rời cuộc sống dù chỉ nửa bước. Chúng ta cảm thấy mình đứng cả hai chân trên miếng đất của sự thực.

Ấn tượng ấy đến với chúng ta không phải ngẫu nhiên. Đó là vì Sử chính là Tư Mã Thiên sống, và con người ấy sống với những tư tưởng lớn.

Có thể nói Tư Mã Thiên là sử gia đầu tiên trên Thế giới viết về lịch sử của một nước. Trước đây, ở Trung Quốc chỉ có những người viết lịch sử một công quốc hay kể lại một số biến cố quan trọng như xuân thu Thượng Thư. Những bộ sử như Lịch sử của Hérodote (481- 425 Tr.CN), Lịch sử chiến tranh Pêlôpône của Thuxtđit (460 - 396Tr. CN) trong văn học Hy Lạp hay Chiến tranh ở Gote của Caear trong văn học La Mã, chẳng qua chỉ kể lại một trận đánh hay một chiến dịch. Quyển Lịch sử La Mã của Titut Livut (69-17 Tr. CN) sau Sử ký viết toàn bộ lịch sử một đô thị, nhưng đó chỉ là lịch sử một đô thị. Sử ký thì khác, nó là lịch sử của toàn bộ dân tộc Trung Hoa kéo dài trên 3000 năm từ Hoàng Đế đến Vũ Đế và bao gồm một địa bàn mênh mông. Chính vì có ý thức rất rõ về tính chất thống nhất và tiếp tục của lịch sử, nên tác giả mới có hai phần khác nhau là biểu bản kỷ, lại có phần thế gian nói điểm chủ yếu trong lịch sử từng công quốc. Không những thế, ông cũng là người đầu tiên nói về những dân tộc mà người ta gọi là ''mọi rợ'' và ở đây tuyệt nhiên không có thái độ khinh miệt.

Ông cũng là người đầu tiên viết một quyển thông sử bao gồm mọi mặt của xã hội. Ông chú ý đến tất cả đọc tất cả biết tất cả kiến thức của thời đại. Những thiên Hà cừ thư, Bình chuẩn thư viết với nhãn lực của một nhà kinh tế học. Ông tìm thấy sự liên quan giữa kinh tế với luật pháp và chính trị. Ông đặc biệt chú trọng đến những thiết chế về văn hóa như lễ, nhạc, văn học, ông đã làm cái công việc phi thường, là xét tất cả các học thuyết của Bách gia; trình bày phê phán, làm công việc của một nhà tư tưởng sử học. Ông là người đầu tiên viết về Khuất Nguyên và sự đánh giá của ông về Khuất Nguyên là quyết định. Quả thật ông đã làm được cái hoài bão to lớn nhất của một con người. Ông đã tổng kết văn hóa Trung Quốc lần thứ hai sau Khổng Tử và xứng đáng với lời khen của Quách Mạt Nhược “công lao của Tư Mã Thiên so với Khổng Tử không hơn không kém”.

Phương pháp viết sử của ông cũng rất đáng chú ý. Tư Mã Thiên nói "Tôi chỉ thuật lại chuyện xưa, sắp đặt lại các chuyện trong đời chứ có phải sáng tác đâu”. Câu nói này thể hiện đúng cái quan điểm tác giả về sử. Ngày nay, chúng ta không nắm được tất cả những tài liệu ông đã dùng, nhưng có một điều chắc chắn là ông không bao giờ thay đổi tài liệu. Những nhân vật thời Ân, Chu chính là những nhân vật của Xuân Thu, Quốc ngữ, Tả truyện, Chiến Quốc sách. Lời nói của họ là lời họ nói trong thực tế theo những tài liệu tin cậy nhất. Những bài văn bia của nhà Tần là do chính tác giả chép lại. Và ông đã để lại cho chúng ta cả một kho tàng văn kiện vô giá, nào chế, biểu, nào văn bia, thư, phú, bài hát, lời ca, cả những bài nghị luận dài, tất cả chiếm một phần ba tác phẩm, trong số đó phần lớn còn sống đến ngày nay vì nó gắn liền với số phận của Sử ký. Đành rằng đây đó, có những chi tiết sai tầm vì tài liệu lúc bấy giờ phần lớn là tài liệu truyền miệng. Nhưng nói chung, ông hết sức nghiêm túc. Quan niệm viết sử này khác xa quan niệm những nhà viết sử Cổ Hy Lạp, La Mã. Các nhà viết sử Cổ đại, trừ Thuxiđit, thường xem sử là công trình nghệ thuật. Những nhân vật của họ đọc những bài diễn văn rất hay, nhưng do họ sáng tác ra, những nhân vật ấy tồn tại với tính cách những giả thiết tiêu biểu cho chính kiến của họ. Chính vì vậy, sử học hiện đại không xem đó là những công trình khoa học, không ai lấy đó làm cơ sở chính cho sự nghiên cứu La Mã, Hy Lạp Cổ. Trái lại Sử ký từ trước đến nay vẫn là uy tín lớn nhất của Cổ sử Trung Hoa. Bất kỳ ai muốn nghiên cứu bất kỳ phương diện nào của Trung Quốc Cổ cũng không thể coi thường nó. Trịnh Tiêu nói: ''Một trăm đời sau, các sử quan không thể thay đổi các phép tắc của ông, kẻ học giả không thể bỏ quên sách của ông'' chính là vì vậy.

Tư Mã Thiên là người cha của sử học Trung Hoa, nhưng là một người cha khó bắt chước nhất. Đối với sử học Trung Quốc ông là người duy nhất nói về đương thời. Các sử gia về sau chỉ viết về một triều đại khi triều đại đó chấm dứt. Họ sợ hiện tại và lẩn tránh nó. Trái lại, Tư Mã Thiên đã dành một nửa tác phẩm cho giai đoạn từ Hạng Vũ đến Vũ Đế, và việc càng gần ông chép càng rõ. Ông để tại những trang vô cùng sinh động về Cấp Ám, con người dám nói thẳng sự thực, không kiêng nể gì Vũ Đế. Ông kết tội Lã Hậu, nêu bản tính lưu manh của Cao Tổ, phơi bày một bức tranh đau thương về xã hội trước mắt. Ông đau xót trước cảnh vua chúa mê tín (Phong thiện thư), phung phí tài sản nhân dân (Bình chuẩn thư), ngoại thích lộng hành (Ngụy Kỳ Vũ An Hầu liệt truyện), quan lại tàn ác (Khốc liệt truyện), nhà Nho cầu an, giả dối (Công Tôn Hoàng truyện, Thích Tôn Thông truyện). Ông luôn run sợ cho tương lai. Và chính ở đây người ta mới hiểu hết cái tâm sự của ông, lòng yêu nước, yêu nhân dân cũng như sự trung thực của một nhà khoa học.

Nhưng quan trọng hơn hết, ông hiểu tác phẩm của ông là viết cho ai. Ông nói, quyển Sử viết cho “những người của nó”. Người của nó ở đây không phải là một vị ân chủ, một mỹ nhân, mà là một nhân dân vĩ đại và bất tử. Ông có ý thức rõ về việc đó cho lên hai nghìn năm sau, đọc Sử ký ta thấy nó sinh động mãnh liệt vô cùng, đồng thời tràn ngập các hoà khí của chính nghĩa. Nhìn vào quyển sách của ông ta thấy xuất hiện lên rõ sự bất bình đẳng cấp trong xã hội, cảnh nghèo khổ của nhân dân mất hết đất đai, sự giàu có phè phỡn của bọn phong kiến, con buôn lớn. Ta thấy bức tranh hiện thực về xã hội mà bọn bồi bút phong kiến cố hết sức che đậy bằng những danh từ trống rỗng. Cố Viêm Võ nói rất đúng: ''Người xưa làm sử không cần bàn luận, nhận xét mà cái ý của tác giả thấy ngay trong việc trình bày thì chỉ có một mình Thái Sử Công làm được mà thôi”. Cái khó ở đây không ở phương pháp mà ở con tim.

Cũng vì Tư Mã Thiên không viết tác phẩm theo khuôn khổ có sẵn về đạo đức phong kiến nên những nhận xét của ông về lịch sử rất trác việt. Ông luôn lấy quyền lợi của nhân dân, lấy sự sống của họ để đánh giá nhân vật lịch sử. Đặc biệt khi viết lịch sử nhân vật nào, ông cũng nêu rõ sự gắn bó của nhân vật với số phận của dân chúng. Ông thấy rõ Trần Thiệp ''tài năng ở dưới mức trung bình'' nhưng đã làm được một việc oanh liệt chỉ vì được dân chúng ủng hộ. Sự phân tích của ông về sự thành công của Lưu Bang và sự thất bại của Hạng Vũ có một ý nghĩa to lớn. Dưới con mắt của ông, Hạng Vũ là một con người phi thường ''tài năng và chí hơn người'', ''từ Cận, Cổ đến nay chưa có ai được như thế”. Về tư cách cá nhân mà nói, thì Lưu Bang kém Hạng Vũ về tất cả mọi mặt. Hạng Vũ là viên tướng bách chiến bách thắng, quân chư hầu sợ Hạng Vũ đến nỗi “đi bằng đầu gối không ai dám ngửng lên nhìn”. Hạng Vũ thương người và trọng nghĩa. Trái lại Lưu Bang là một người ''không lo làm ăn”, ''tham tiền và hám gái”, ngạo mạn và thô lỗ: ''Thấy khách đội mũ nhà Nho, Bái Công liền giật lấy mũ đái vào trong”. Thế nhưng cuối cùng Lưu Bang lại lấy được thiên hạ. Đó là vì Lưu Bang đã không biết tự kiềm chế mình. Song, ông ta lại biết lắng nghe theo lời dân, luôn luôn chú ý đến dân chúng cho nên dân chúng tin. Đúng như Hàn Tín nói: ''Hạng Vũ chỉ có cái nhân của người đàn bà, cái dũng của kẻ thất phu, tiếc tiền, tiếc đất, chỉ tin vào tài năng của cá nhân mình, nghi ngờ tất cả; đã thế lại hiếu sát làm cho nhân dân thất vọng. Lưu Bang đã thắng vì biết dựa vào dân, tận dụng tài năng của các tướng”. Cách nhìn nhận như vậy rất đúng và khoa học. Nó làm người ta nhớ đến những tác phẩm của Maklaven, ở đây Tư Mã Thiên có thể  sánh với những nhà sử gia lớn nhất của Cổ đại.

Tư Mã Thiên đã để lại hàng ngàn nhân vật điển hình sống mãi trong văn học. Riêng về mặt này, ông có thể sánh với những nhà văn lớn nhất của nhân loại. Cả một nhân loại mênh mông hiện ra trước mắt chúng ta, đủ các thành phần, đủ các nghề nghiệp, đủ các tầng lớp. Hình ảnh các chàng nông dân như Trần Thiệp, Ngô Quảng; những người du thuyết như Tô Tân, Trương Nghi, Phạm Thư; những hiệp khách như Kinh Kha, Nhiếp Chính; những anh hàng thịt như Chu Hợi, Cao Tiệm Ly; những triết gia thư Khổng Khâu, Trang Chu; những danh tướng như Hàn Tín, Lý Quảng; những công tử như Tín Lãng Quân, Mạnh Thường Quân; những bạo chúa như Tần Thuỷ Hoàng, Nhị Thế v.v. . . và vô số những hình ảnh khác là những hình ảnh bất tử. Những hình ảnh ấy đã du nhập vào kho tàng văn học làm thành hệ thống những truyện ký, thoại bản, hí khúc, kịch, thơ, lời nói và hành động của họ nhờ Tư Mã Thiên nêu lên đã thành tài sản của dân tộc. Đó là một điều lạ. Nhưng điều lạ hơn là đời sau có thể tô điểm thêm bớt nhưng dường như khó lòng dùng năng lực hư cấu của mình để tạo nên một Kinh Kha, một Hàn Tín, hay một Hạng Vũ khác hẳn hình tượng Tư Mã Thiên đã tạo nên mà cũng sinh động như vậy. Có thể nói những hình tượng Tư Mã Thiên tạo ra đã được nhân dân tiếp nhận toàn vẹn. Điều đó không phải là một hiện tượng thường thấy trong lịch sử văn học. Nếu ta xét những nhân vật lịch sử Châu Âu thì ta thấy rõ họ được biểu hiện trong văn học một cách rất khác nhau ở từng nhà văn. Hiện tượng Catilina của sử gia La Mã Xanlut rất khác hình tượng Catilina của Ben Jonxô. Hình tượng Catilina của Ipxen lại càng khác hẳn. Tư Mã Thiên làm thế nào cho nhân vật của mình sống mãnh liệt đến nỗi họ tồn tại khách quan ở ngoài nhà văn, và dân chúng  khó lòng chấp nhận sự thay đổi?

Khi miêu tả một nhân vật lịch sử, các sử gia thường chỉ xét họ trong những giờ phút họ đóng một vai trò lịch sử, họ chỉ xét nhân vật trong “tư thế lịch sử” của nó. Nhưng làm như thế, tức là cắt xén nhân vật biểu hiện nó một cách phiến diện và thậm chí có khi xuyên tạc vì trong những lúc nhất thời, cá nhân có ý thức về vai trò lịch sử của mình, họ thường đóng kịch. Tư Mã Thiên không làm như vậy. Ông không chỉ nắm Hàn Tín khi làm Đại tướng quân của Lưu Bang, mà còn nắm Hàn Tín ngay từ khi ăn nhờ, chui qua háng anh chàng thịt lợn ở ngoài chợ.

Nhờ sống trong nhân dân và đến tận nơi điều tra, nên ông thấy Trần Bình từ khi chia thịt, thấy Phàn Khoái từ khi bán thịt chó. Ông chú ý đến Trương Nghi từ khi anh chàng bị đánh gần chết, gãy hết cả răng, chú ý đến Lưu Bang từ khi ăn quịt tiền rượu. Tư Mã Thiên theo dõi một nhân vật và cốt tìm cho được cái bản chất của nó. Chính vì thế ông không bao giờ bỏ qua những cảnh thiếu thốn và nhục nhã mà nhân vật đã trải qua, vì ông biết bản chất con người thường lộ ra ở những thời điểm điển hình ấy. Đối với ông, nhân vật lịch sử vĩ đại đến đâu trước hết cũng là một con người bình thường. Khổng Khâu trước khi được tôn sùng như một vị Thánh cũng chỉ là một người mong muốn được làm quan phiêu bạt đi tìm công danh, mấy lần suýt theo những kẻ mà ông gọi là loạn thần, tặc tử. Trong khi theo dõi nhân vật ông không chạy theo sự kiện mà cốt tìm được cái quyết định tính cách của con người. Ông thấy tính cách con người do nhiều yếu tố quyết định có khi là do thiên hướng từ nhỏ. Nhân vật Trung Thanh điển hình cho bọn quan lại tàn ác, lúc nhỏ giữ nhà để chuột ăn mất thịt bị cha đánh đòn. Thanh bắt được chuột làm một bản án kết tội chuột ''người cha xem thấy lời văn quả là một tay quan lại coi ngục sành sỏi cả kinh”. Có khi nó là kết quả của nghề nghiệp, giáo dục; Lã Bất Vi, một thương nhân giàu thấy Tử Tương con Vua Tần làm con tin ở Triệu thì nói: “Món hàng này có thể bán được đây”. Y xuất tiền bạc quảng cáo cho hàng và cuối cùng được lãi to, làm Tể tưởng nước Tần. Ông thấy cái điều làm một vĩ nhân khác con người tầm thường là ở chỗ họ có một hoài bão lớn ngay trong nhưng cảnh ngộ cùng khốn nhất. Ông lắng nghe chàng cố nông Trần Thiệp đang cày bỗng dừng lại nói với các bạn cày: ''Sau này phú quý chớ quên nhau''; ông chú ý đến cậu bé Hạng Vũ học kiếm chẳng thành nhưng đòi “học cái đánh lại vạn người”. Một khi tìm được tính cách nhân vật, ông cố gắng tìm những câu nói điển hình và những hành động điển hình để làm cho hình tượng càng nổi bật. Nói đến Hàn Tín là người ta nhớ đến câu “Nhà Vua không muốn lấy thiên hạ sao, tại sao lại chém tráng sĩ”. Nói đến Lý Tư không ai quên được câu: ''Người ta ở đời hiền hay bất hiếu cũng như con chuột; chẳng qua do hoàn cảnh cả”. Những câu như vậy có hàng ngàn. Có nhiều nhân vật chỉ xuất hiện trong một vài câu nhưng họ được điển hình hoá ngay vì tác giả đã nắm được câu nói điển hình của họ. Chẳng hạn như nhân vật Cáp Nhiếp, Phàn Ư Kỳ trong Thích khách liệt truyện nói không quá hai câu, nhưng đã đủ làm người ta thấy rõ cái phong thái trọng nghĩa khinh tài và lòng căm thù chồng chất của họ đối với nhà Tần. Những câu nói điển hình và hành động điển hình thường không phải là cái gì có tầm quan trọng của lịch sử. Tolstoi trong bài nhận xét về Chiến tranh và hoà bình nói nhà viết tiểu thuyết lịch sử miêu tả nhân vật lịch sử khi họ mang áo ngủ. Tư Mã Thiên còn đi xa hơn. Để miêu tả thái độ ngạo mạn của Vũ Đế, chỉ cần một chi tiết ''Nhà Vua có khi ngồi xổm ở bên giường để tiếp Đại tướng quân Vệ Thanh”. Để miêu tả sự suồng sã của Lưu Bang chỉ cần một chi tiết nhỏ: ''Chu Xương có lần vào tâu thấy Cao Tổ đang ngồi ôm con gái. Xương chạy ra, Cao Tổ đuổi theo cưỡi lên cổ hỏi: “Ta là vị Vua như thế nào?”, Xương ngẩng đầu lên đáp ''Bệ hạ là ông Vua Kiệt, Trụ”. Nhà Vua liền cười ha hả, (Chương thừa thướng truyện). Chỉ một chi tiết như vậy đủ làm cho ngàn năm sau không ai có thể bênh vực cho Vũ Đế và Cao Tổ về việc quý trọng kẻ sỹ vô sỉ đến như thế.

Một khi đã nêu lên tính cách chủ đạo của nhân vật tác giả không bao giờ dừng lại để bàn bạc, trái lại ông trình bày dồn dập nhiều sự kiện điển hình tự bản thân nó có đủ sức thuyết phục hùng hồn hơn mọi lý luận. Đó là then chốt của phương pháp tự sự của ông mà đời sau không ai bắt chước được. Bản ký Hạng Vũ chẳng hạn, viết với lối văn khô khan của biên niên sử. Ở đây chỉ có sự kiện và năm tháng. Nhưng vì biết rút ra từ sự kiện làm thành cá tính của Hạng Vũ và thời đại Hạng Vũ, cho nên chính cái lối trình bày đơn giản, khách quan này lại lôi cuốn người đọc hơn mọi thứ từ chương.

Văn của Tư Mã Thiên là lối văn giản dị, chắc lịch của thời Tây Hán. Cách tự sự của ông có được cái tính chất rắn chắc, khúc chiết của đương thời, nhưng còn một điều đặc sắc hơn là rất sinh động và đa dạng. Những con người của Tư Mã Thiên miêu tả đã mang đậm nét đặc sắc chung của thời đại họ, nhưng lại giữ nét nổi bật làm thành bản sắc riêng của mỗi con người.

Muốn làm nổi bật cái cá tính của nhân vật cũng như màu sắc chung của thời đại, không bao giờ tác giả xét nhân vật một cách cô lập, mà đặt nó trong sự đối lập với các nhân vật khác. Đọc Lý Tư người ta nhất định phải thấy Triệu Cao, đọc Bình Nguyên Quân thì thấy ngay Tín Lăng Quân; bên cạnh Lưu Bang luôn luôn có mặt Hạng Vũ. Để làm nổi bật sự đối lập tác giả rất chú ý đến sự đánh giá về nhân vật của người đương thời. Mỗi nhân vật như vậy ít nhất cũng được vài ba người đánh giá. Để đánh giá Lưu Bang tác giả nhắc lại những lời đánh giá của Tiêu Hà, Phạm Tăng, Lịch Sinh, Trương Lương, Trần Bình, Hàn Tín v.v. . . Để đánh giá Tín Lăng Quân tác giả không quên những nhận xét của Hầu Sinh, Mao Công, Tiết Công, Bình Nguyên Quân, v.v... Tác giả nhiều khi gộp họ vào một chương để càng làm nổi bật chủ ý của mình. Đó là những lúc đối lập rõ rệt. Nhưng có những lúc đối lập kín đáo hơn thì thật thú vị. Chẳng hạn không phải ngẫu nhiên mà tất cả những quan lại tốt trong Tuần lại liệt truyện đều là người trước đời Tần, trái lại tất cả những người trong Khốc lại liệt truyện đều là những nhân vật thời Hán. Cũng vậy, ai cũng phải thừa nhận hình tượng về Vũ Đế sao mà giống Tần Thủy Hoàng làm vậy, cũng huênh hoang, tự đắc, thích chiến tranh, thích Thần tiên, thích xây dựng, thích xu nịnh.

Chính cái phương pháp tự sự bậc thầy, công phu và chu đáo ấy đã làm cho nhân vật sống động và khách quan, không có sự can thiệp của tác giả, và cũng do đó đời sau không thể nào thay đổi được. Sự thực vốn hùng hồn hơn lời nói và khi các sự thực đã xếp thành hệ thống logic và hàm súc thì tự nó sẽ nói lên tiếng nói của chân lý.

Qua từng trang sách hình ảnh của Tư Mã Thiên rất rõ lên từng trang, tâm sự của ông hiện lên như một tiếng đàn tuy rất khẽ nhưng rất rền trong bản hợp tấu vĩ đại. Chúng ta biết bản thân sự đối lập là biểu hiện một thái độ. Ngoài ra tác giả còn sử dụng rất thạo phương pháp viết sử của Kinh Xuân Thu. Mục đích của nó là trình bày sự khách quan, nhưng bằng cách đối lập với các việc khác hay thêm bớt một chữ mà tỏ thái độ của mình. Chẳng hạn, trong Hoài Âm Hầu liệt truyện; để nói rằng Hàn Tín chết vô tội chứ không phải làm phản, ông gọi Tín là ''Hoài Âm Hầu'' chứ không gọi Hàn Tín như gọi Kinh Bố trong Kinh Bố liệt truyện. Ông kể tỉ mỉ ba lần người ta thuyết phục Tín làm phản mà tín không nghe, nhắc đến năm lần cái câu Hán Vương sợ Hàn Tín. Đến lúc Tín chết thì hối hận không biết trước thái độ lặt lọng của Lưu Bang, trái lại Lưu Bang nghe tin vừa giận, vừa mừng v.v... Lối bút pháp ấy rất là nghiêm và rất rõ ràng đối với những người quen đọc Xuân Thu. Ngoài ra, mỗi khi hết chương? tác giả thường đưa ra những nhận xét của mình: đề ký thác tâm sự hay đính chính lại những cách nhìn sai lầm của tập tục.

Trích trong Sử ký, lời giới thiệu




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1056-02-633389221619878278/Nhung-tac-pham-do-so-bat-hu-cua-Nhan-loai...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận