NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM – MỘT TÁC PHẨM ĐỒ SỘ
CỦA NỀN VĂN HỌC THẾ GIỚI
Nghìn lẻ một đêm, tác phẩm vĩ đại nhất của nền văn học Ả Rập từ cổ chí kim, là một trong những công trình sáng tạo đồ sộ và tuyệt diệu của nền văn học thế giới.
Đề tựa bản dịch tiếng Nga xuất bản năm 1929 ở Léningrád, Macxim Gorki viết: ''Trong số các di tích tuyệt diệu của sáng tác truyền khẩu dân gian, các truyện cổ tích của nàng Sêhêrazát là di tích đồ sộ nhất. Những truyện cổ tích này thể hiện, với một mức hoàn hảo kỳ diệu, xu hướng của nhân dân lao động muốn buông mình theo ''phép nhiệm màu của những ảo giác êm đẹp theo sự kết hợp phóng khoáng của từ ngữ, thể hiện sức mạnh vũ bão của trí tưởng tượng hoa mỹ của các dân tộc phương Đông - người Ả Rập, người Ba Tư, người Ấn Độ. Công trình dệt gấm bằng từ ngữ này xuất hiện từ thời tối cổ, những sợi tơ muôn màu của nó lan khắp bốn phương, phủ lên Trái đất một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng”.
Truyện mở đầu, giải thích lý do ra đời của tất cả các truyện, cái khâu đầu tiên của sợi dây chuyền vàng xuyên qua mọi tình tiết, liên kết chúng lại thành một chuỗi ngọc tuyệt tác muôn màu muôn vẻ rồi vòng trở lại để làm thành đoạn kết thúc, là truyện của một người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh rất mực, đã không quản hiểm nguy dám hy sinh tấm thân ngà ngọc của mình để cứu các bạn gái khỏi cảnh ô nhục và cái chết bi thương.
Ngày xưa có hai anh em cùng làm Vua. Anh là Hoàng đế nước Đại Ba Tư choán một phần lớn Trái đất. Em là Vua nước Đại Táctari chư hầu của anh. Một hôm, được lệnh của anh triệu về, em vội vã lên đường. Xa giá vừa ra khỏi kinh thành đã nghỉ lại: nhà Vua nhớ Hoàng hậu, một mình liền trở lại cấm cung định tự tình với người vợ yêu quý một lần nữa; nhưng hỡi ôi, nhà Vua không gặp được Hoàng hậu bởi vì nàng đang ngủ say trong vòng tay một người đàn ông khác ngay trên chiếc giường ngự của mình. Nổi giận, nhà Vua chém chết đôi gian phu dâm phụ, ném xác xuống hào rồi lặng lẽ trở lại hành cung và ra lệnh khởi hành mà tuyệt nhiên không hề cho một ai hay biết nỗi khổ riêng đang dày xé lòng mình.
Song cũng từ buổi tối bất hạnh ấy, một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm nhà Vua và thường xuyên lộ ra trên nét mặt. Cảnh Hoàng đế thân hành ra đón từ ngoài kinh thành, cảnh hội hè yến tiệc, nghi lễ linh đình cũng như sự săn sóc chân tình của nhà Vua anh đều không thể làm tiêu tan mối sầu u ẩn. Nhà Vua tự cho mình là người đau khổ nhất trần gian. Nhưng một hôm, tình cờ nhà Vua bắt gặp Hoàng hậu, chị dâu của mình, ngoại tình với một tên da đen trong khi Hoàng đế mải đi săn. Vua em thấy nhẹ hẳn người. “À, ra không phải chỉ có ta là người đau khổ duy nhất. Vinh hiển, phú quý, quyền uy chấn động thiên hạ đến như Hoàng đế anh ta mà vẫn bị vợ lừa dối vậy thì việc gì ta phải tự dày vò cho khổ thân”.
Khi tự mình chứng kiến hành động dâm ô của Hoàng hậu, đến lượt Vua anh cũng chán ngán, rủ Vua em cùng nhau từ bỏ ngai vàng, từ bỏ mọi phú quý vinh hoa trên trần thế, ra đi tìm chốn ẩn thân đến trọn đời ở một nơi chân trời góc bể nào đó cho khuây khoả nỗi buồn, cho nguôi đi vết nhục. Nhưng tình cờ - vẫn là sự tình cờ - hai Vua bắt gặp một Thần linh từ dưới đáy biển nổi lên ghé vào bờ, trên đầu đội một chiếc hòm thủy tinh khoá chặt bằng bốn chiếc khoá; để phòng ngừa vợ có thể không chung thuỷ. Thần đã nhốt ả vào trong đó và giấu tận đáy đại dương, chỉ mở cho ra những khi nào mình cần yêu đương tình tự. Ấy thế mà người đàn bà đẹp này đã từng ngoại tình với những chín mươi tám người đàn ông khác – mỗi người, sau phút ái ân, phải để lại cho ả một chiếc nhẫn làm kỷ liệm. Và mỉa mai làm sao, hai nhà Vua, hai ông chồng đang buồn rầu ngao ngán về thế sự này lại chính là những kẻ bị ả ép buộc phải làm những tình nhân bất đắc dĩ thứ chín mươi chín và thứ một trăm.
Vậy ra đàn bà ở đâu cũng vậy và ai cũng như ai thôi! Không thể có một cách nào khác đủ hiệu lực ngăn ngừa để cho họ giữ trọn yên lòng chung thuỷ với chồng. Chỉ còn một cách, Hoàng đế nước Đại Ba Tư rút ra kết luận - là giết chết ngay người con gái vừa chung chăn chung gối, không để cho sống đến ngày hôm sau. Đó chính là cách trả thù đời, trả thù đàn bà, trả thù vợ của những ông chồng bị cắm sừng có trong tay quyền lực tối cao.
Từ buổi đó, một luật lệ mới được ban hành ở nước Đại Ba Tư vô cùng dã man, hết sức khắc nghiệt. Vua truyền cho Tể tướng cứ mỗi đêm bắt vào cung một cô gái trinh để hầu hạ mình, rồi rạng sáng hôm sau, khi màn đêm vừa tan biến thì hạ lệnh giết chết.
Thế là cứ đêm đêm một cô gái trinh đi lấy chồng và sáng sáng một người đàn bà thiệt mạng.
Cảnh tang tóc bao phủ khắp kinh thành. Cung đình tràn ngập mùi máu. Nỗi đau đớn xé lòng mọi người mẹ, người cha, người yêu, người chồng chưa cưới. Giữa lúc ấy, xuất hiện một cứu tinh, nàng Sêhêrazát, con gái yêu của chính Tể tướng, kẻ có trách nhiệm thi hành mệnh lệnh tàn bạo của Vua.
Sêhêrazát khẩn khoản xin cha mang mình hiến cho Hoàng đế.
Con điên hay sao? - Tể tướng kinh hoàng.
Không, thưa cha, con hiểu rõ nỗi hiểm nghèo mà con sẽ phải trải qua, nhưng nó không làm cho con kinh sợ. Nếu con có phải bỏ mình, cái chết sẽ quang vinh; nhưng nếu con thành công, con sẽ giúp cho đất nước một công việc quan trọng.
Sêhêrazát vào hầu Hoàng đế, chỉ xin mỗi một đặc ân: cho phép em gái nhỏ của nàng được ngủ cùng buồng với chị “một đêm cuối cùng”. Vua đồng ý. Tảng sáng hôm sau, một giờ trước khi Mặt trời mọc, cô em gái nhỏ, được dặn trước, liền gọi chị và khẩn khoản xin chị kể cho nghe “một trong những câu chuyện hay mà chị rất thích”.
Tên Vua độc ác, lúc xác thịt đã thoả mãn, cũng muốn nghe một câu chuyện hay khi chờ trời sáng để cho thi hành luật lệ đã man của hắn. Nàng Sêhêrazát bắt đầu kể.
Trời sáng rồi mà chuyện hay còn dang dở. Nhà Vua nửa cần đi thiết triều, nửa lại muốn nghe nốt, liền cho hoãn lệnh xử tử người con gái đến ngày hôm sau.
Một đêm nữa, rồi lại một đêm nữa... chuyện vẫn dở chừng và đoạn hay nhất thì vừa lúc trời sáng, và bản án tử hình lại phải hoãn.
Cứ thế một Nghìn lẻ một đêm trôi qua.
Cứ thế, truyện này nối tiếp truyện kia, truyện sau lồng vào truyện trước, truyện này chưa hết truyện khác đã bắt đầu, dường như vô tận. Trước mắt chúng ta, hiện lên không biết bao nhiêu là nhân vật: từ Hoàng đế, Tể tướng, Hoàng tử, Vương tôn, quan coi ngục, viên hoạn nô, tên cướp biển, lão chủ nô, mụ mối, đứa du thủ du thực, cho đến lái buôn, bác phó cạo, anh thợ may, người vác thuê, nhà hàng thịt, cô hầu gái, chú tiều phu, nhà hiền triết, bậc tu hành, và phúc Thần, và phù thuỷ, và ma quỷ, và tiên nương… Khi cảnh cung đình rực rỡ đèn hoa, lộng lẫy ngọc ngà châu báu; khi là cảnh giật cướp trên tàu kiếm miếng ăn để sống; lúc chuyện xảy ra trong thế giới thần tiên, lúc ở nơi trần tục mà ngày nay ta gọi là đầu đường xó chợ; về tôn giáo, có những người theo Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, Đạo Do Thái, người thờ Thần lửa... Về không gian, các chuyện xảy ra ở những nơi nay được ghi trên bản đồ là Ấn Độ và Sri Lanka, Liên Xô và Trung Quốc, Jordanie và Iran và đương nhiên trước hết là vùng Tây Á và Bắc Phi với Ai Cập, Iraq, Syrie... Tóm lại khung cảnh rất rộng lớn, chủ đề rất đa dạng, tình tiết hết sức bất ngờ, ngôn ngữ vô cùng phong phú, nhân vật rất thực và cũng rất hư; quả khó có cách nào diễn tả cho gãy gọn, nếu không trở lại mượn hình tượng Gorki đã dùng ''những sợi tơ muôn màu lan khắp bốn phương, một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng phủ trên mặt đất”.
Câu chuyện - hay đúng hơn là bộ sưu tập, là kho tàng các câu chuyện – mở đầu bằng những tình tiết gây ấn tượng không lấy gì làm tốt đẹp đối với người phụ nữ, đối với đức hạnh của những người vợ; song với cái nút vừa thắt lại thì đã tháo ra ngay làm bật rõ phẩm chất cao quý của một người con gái, trí tuệ sáng ngời của một người đàn bà, chứ không phải là ai khác. Sêhêrazát nói với cha: ''Nếu con có phải bỏ mình, cái chết của con sẽ quang vinh, nhưng nếu con thành công, con sẽ giúp cho đất nước một công việc quan trọng”. Toàn bộ tác phẩm mở đầu với hành động cực kỳ hung bạo, hơn cả súc vật của một tên Vua - bởi vì ngay loài cầm thú cũng không bao giờ con đực cắn chết con cái, làm như vậy là trái với tự nhiên, là tự mình diệt chủng – và kết thúc bằng một cử chỉ hoàn toàn hợp với tính người: sau đêm một nghìn lẻ một, bạo chúa tha chết cho nàng Sêhêrazát và huỷ bỏ luật pháp đã man của mình mà trên thực tế, đã không có dịp thi hành suốt một nghìn ngày lẻ một. Độc giả lúc gấp sách lại, hay thính giả khi người kể ngừng lời - vì đây là những truyện kể - hoàn toàn thoả mãn: vừa thú vị về nội dung đặc sắc của các câu chuyện, vừa hài lòng về cách kết thúc hợp lý hợp tình. Không ai còn nhớ đến các Hoàng hậu kém đức hạnh nữa, trong trí nhớ mỗi người hiện lên rõ đậm hình đáng một nàng Sêhêrazát cao quý, dũng cảm, thông minh, xinh đẹp tuyệt trần và chắc chắn là có giọng nói cực kỳ êm ái.
Ngay từ đêm đầu, chúng ta đã thấy được nghệ thuật đặc sắc của những truyện sẽ kể tiếp trong một nghìn đêm sau.
*
* *
Theo các nhà nghiên cứu, Nghìn lẻ một đêm ít ra là bản lưu truyền đến với chúng ta ngày nay, được định hình hẳn và giữ nguyên dạng ấy cho đến tận bây giờ, vào khoảng cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV ở Ai Cập; vào thời kỳ mà cả đất nước này đã hoàn toàn theo Đạo Hồi. Nhưng thật ra sự xuất hiện của nó còn ngược lên đến thời xa xưa, bắt nguồn từ những truyện Ba Tư rất cổ và đã trải qua một thời kỳ phát triển lâu dài trước khi được viết thành văn.
Cũng như ở tất cả mọi nơi, các truyện kể dân gian không bao giờ là công trình sáng tạo của một người và có hình dạng hoàn chỉnh ngay từ đầu hay trong một thời gian ngắn. Thông thường xoay quanh một chủ đề cơ bản, được quần chúng tham gia, thời gian nhào nặn, tình tiết của câu chuyện phong phú dần lên, có khi biến dạng đi, và tất nhiên thay đổi ít nhiều tuỳ theo địa điểm và thời gian; bố cục chặt chẽ hơn cho đến một lúc nào đấy, nó được những tài năng kiệt xuất chỉnh lý, định hình lần cuối, hoặc được nhân dân chấp nhận coi như dạng bản cuối cùng.
Các truyện kể được tập hợp trong công trình đồ sộ với cái tên phổ cập toàn thế giới Nghìn lẻ một đêm có lẽ bắt nguồn từ truyền thống các truyện dân gian xuất xứ ở miền Đông - đế quốc của các Hoàng đế Ả Rập. Xoay quanh những truyện này, một số truyện khác còn cổ hơn, có nguồn gốc Ấn Độ, Ba Tư hoặc Ấn - Âu được bổ sung vào. Một loại nữa là những câu chuyện lưu truyền phản ánh sinh hoạt của xã hội Hồi giáo buổi sơ khai của thời Trung cổ, tức là thời đại các Hoàng đế Abátxít trong đó một phần quan trọng dành nói về những chuyện phiêu lưu trên biển cả của những thương nhân đầu tiên bắt đầu mở rộng buôn bán với nước ngoài qua đường biển. Tất nhiên nội dung nhiều truyện vay mượn từ kho tàng cổ tích của các dân tộc khác. Đây là một hiện tượng thường thấy, nó cắt nghĩa vì sao nhiều truyện cổ của người Ấn Độ, của Tây Âu chẳng hạn có những điểm chung giống những truyện cổ ở Trung Quốc, ở Nam Á. "Vay mượn không phải bao giờ cũng là xuyên tạc, đôi khi việc vay mượn bổ sung cho truyện và làm cho nó đã hay càng hay hơn”.
Người kể chuyện rong mang những chuyện đó đi kể lại ở các nơi, và tất nhiên trong quá trình ấy họ gọt đẽo cách diễn tả cho thích hợp và hấp dẫn người nghe. Người ta cho rằng, chính những người Ai Cập kể chuyện trong thế kỷ XII và XIII đã làm cho các truyện Nghìn lẻ một đêm thêm phong phú về nội dung, linh hoạt về hình thức và sáng sủa về từ ngữ. Ngôn ngữ dùng trong tập truyện này gắn với tiếng nói của các tầng lớp bình dân Ả Rập hơn là ngôn ngữ Kinh viện dùng trong sách vở thời bấy giờ.
Cũng có thể, Nghìn lẻ một đêm thành hình với tư cách là một tác phẩm hoàn chỉnh còn sớm hơn. Theo cuốn Lịch sử văn học Ả Rập, năm 956 một học giả Ả Rập là Masudi (Maxuđi) đã nói tới một cuốn sách cổ của người Ba Tư nhan đề Một nghìn truyện, ''thường được gọi là Nghìn lẻ một đêm, đó là chuyện một quốc Vương và Tể tướng cùng với tiểu thư và người hầu gái của nàng Sêhêrazát và Đináczát”.
Năm 988, Mohammed Ishap (Môhamét Isap), tác giả một tập thư mục những tác phẩm văn học Ả Rập và người nước ngoài, đã nói đến việc người Ả Rập soạn lại tập truyện cổ Ba Tư đó.
"Tác giả tập Truyện các Tể tướng là Abdus Al Jahshiyan bắt tay soạn một cuốn sách trong đó ông chọn một nghìn truyện của người Ả Rập, người Ba Tư, người Hy Lạp và nhiều dân tộc khác, các truyện đều riêng biệt, không có quan hệ gì với nhau. Ông tập hợp một số người làm nghề kể chuyện lại, mời họ kể cho nghe rồi chọn những chuyện hay nhất, những ngụ ngôn, cổ tích mà ông thích nhất. Là một người có tài, ông đúc kết những câu chuyện đó lại thành bốn trăm tám mươi đêm, mỗi đêm là một truyện trọn vẹn dài trên dưới năm chục trang. Nhưng ông chết bất ngờ trước khi hoàn thành một nghìn truyện như dự định".
Nghìn lẻ một đêm như ta đã biết hiện nay, lần đầu tiên được giới thiệu với Châu Âu rồi từ đó phổ cập rộng khắp, hầu như toàn thế giới là nhờ công lao của một học giả người Pháp Antoine Galland (Ăntoan Galăng) mà bản dịch từ khi ra đời cách đây gần 3 thế kỷ đã mau chóng thành kinh điển. Antoine Galland sinh năm 1646 tại một thị trấn nhỏ ở Tỉnh Picátđi, miền Bắc nước Pháp. Ông mồ côi cha từ sớm, bà mẹ đã phải làm lụng vất vả cho con ăn học. Mười bốn tuổi đã phải đi làm: một năm sau tìm cách đến Paris tiếp tục trau dồi kiến thức. Sau đó giúp việc cho sứ thần Pháp ở Constantinople (nay là Istanbul, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), nhờ vậy ông có điều kiện đi lại nhiều lần ở các nước Tây Á. Trở về Paris, một hôm tình cờ đọc được một bản chép tay bảy truyện cổ Ả Rập, ông có ý định dịch và cho xuất bản. Sách sắp đưa in thì dịch giả được biết, truyện này thật ra rút từ ''một pho đồ sộ gồm nhiều truyện tương tự, chia thành nhiều tập, đề là Nghìn lẻ một đêm''
Ông nhờ người tìm kiếm hộ, từ Syrie người ta chỉ gửi đến cho ông được có bốn tập. Ông dịch ngay tập đầu tiên và cho xuất bản năm 1704 “Món quà nhỏ mọn” như lời ông viết trong thư gởi tặng Hầu tước phu nhân O, lập tức được hoan nghênh nhiệt liệt. Cùng với Hầu tước phu nhân O, cả triều đình Nghị viện và từ giai cấp tư sản cho đến các tầng lớp nghèo hèn, tóm lại là tất cả những ai biết đọc ở Pháp hồi đó đều đổ xô vào giành nhau tập sách. Trong bốn năm, từ 1704 đến 1708, mười hai tập lần lượt ra đời. Năm 1709 Antoine được một người Ả Rập đến Paris tạo thêm cho một số truyện nữa, ông lại dịch và cho in tiếp. Từ 1704 đến 1782, trong vòng bảy mươi tám năm, bản dịch của Galland được in lại hơn bảy mươi lần. Trong những điều kiện của thời bấy giờ với phương tiện và kỹ thuật ấn loát thô sơ, công nghiệp giấy chưa phát triển, sự thành công đã vượt quá mức tưởng tượng và sự mong ước của mọi người. Từ bản dịch của Antoine Galland, Nghìn lẻ một đêm được dịch lại và xuất bản ở nhiều nước Châu Âu như Anh, Hà Lan, Đức, Italia, Tây Ban Nha, và một số nước khác.
Chừng hai thế kỷ sau Antoine Galland, một bản dịch tiếng Pháp khác của Nghìn lẻ một đêm ra đời. Dịch giả là Bác sĩ J.C.Mardrus. Thật ra đây là một bản địch theo một quan niệm và phong cách hoàn toàn khác: Mardrus không bỏ sót một chi tiết nào, kể cả những đoạn rườm rà đượm màu dâm tục và tất cả những thơ ca rải rác trong các truyện.
Người ta đã bàn cãi khá nhiều về hai bản dịch đó. Các nhà nghiên cứu văn học đều nhất trí đánh giá rất cao bản dịch của Antoine Galland. Người dịch đã cố tình tước bớt, để tránh cho người đọc đỡ phải ngượng ngùng, một số chi tiết khá tỷ mỹ những cảnh sinh hoạt mà cho dù có in ra ''cũng không cho biết thêm một điều gì mới mẻ về phong tục của những người theo Đạo Hồi” bởi vì, những cảnh ấy "diễn tả con người đang sống trong những giây phút bản năng thấp hèn nhất mà bất cứ người sống ở vĩ tuyến nào cũng đều có'' như lời nhận xét của E. Blochet (E. Blơsê) trong Tạp chí Bách khoa số tháng Giêng năm 1900. Tạp chí này còn viết: "Bản dịch của Antoine Galland cho chúng ta một ý niệm rất trung thành về tính cách và hơi văn bộ Nghìn lẻ một đêm cũng như về sinh hoạt của người Ả Rập”.
Sáclơ Nôđiê, một nhà văn Pháp cũng chuyên viết truyện cổ tích đầu thế kỷ XIX đã đánh giá bản dịch của Antoine Galland như sau: ''Bản dịch của Galland là một tác phẩm có thể coi là kinh điển trong thể loại văn học này, và nếu nó có phải chịu một vài điều chê trách của những nhà Đông phương học nào đó mê tín các nguyên bản, ấy là vì những vị này coi trọng lợi ích của ngành học thuật chuộng màu sắc xa lạ của họ hơn là tinh thần của ngôn ngữ và những yêu cầu của nền văn học dân tộc chúng ta.. Chúng tôi quả quyết rằng, lẽ ra người ta phải thông cảm hơn với trí thông minh và sự tinh tế của người dịch đã gạt bỏ ra khỏi các truyện ''xinh xắn'' ấy những hình tượng chối chăng, những chi tiết nhạt nhẽo, những sự trùng lặp vô bổ nó chỉ có thể làm giảm sút hứng thú trong một ngôn ngữ bóng bảy nhưng chính xác, bất kỳ ở đâu cũng muốn kết hợp tính gợi cảm và tính chuẩn xác''.
Nhà văn Gastoin Picard (Gaxtông Picar) gần đây cho soát lại bản dịch của Galland để cho in lại (bản in năm 1962), sau khi trích dẫn ý kiến của Tạp chí Bách khoa đã hóm hỉnh nhận xét thêm:
"Antoine Galland ý tứ hơn nhiều so với tiểu thư Sêhêrazat người mới hôm qua đây còn là trinh nữ, ông sợ làm chối tai nạn đọc tuy không còn thơ dại như Đináczát song cũng không có đôi tai ưa nghe những chuyên sỗ sàng như đôi tai bạo chúa Saria”.
Khác với J.C. Mardrus, Antoirle Galland không quan tâm dịch các văn thơ. Có lẽ ông không muốn để người đọc phải sốt ruột: với những truyện hấp dẫn thế này, ai chẳng rộng lòng muốn biết kết cục rồi sẽ ra sao. Vả chăng, chẳng phải là chất thơ đã thấm đượm mọi dòng, mọi trang của các truyện Ả Rập đó sao, cho dù nó có hay không xen vào các đoạn văn? Hơn nữa, đây là một thể loại văn học dân gian. Tuy gửi tặng một Hầu tước phu nhân, song thật ra Antoine Galland khi dịch đã nghĩ tới những độc giả bình thường các tầng lớp đông đảo và chính điều đó quyết định một phần rất lớn thành công của ông, làm cho tập truyện mau chóng phổ cập rộng rãi, tuy sau những phần cắt xén, lược dịch và chọn lọc, vẫn còn dài tới hai nghìn trang.
Còn J.C. Mardrus thì xuất phát từ một quan điểm khác. Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ bản dịch của ông đề tặng Stéphane Mallarmé (Xtêphan Manlácmê), và tập 1 đề tặng Paul Valéry, hai nhà thơ bí hiểm. Vì những lẽ đó, một số người thường có xu hướng coi bản dịch của JC. Mardrus nặng tính chất một công trình nghiên cứu hơn.
Nghìn lẻ một đêm không chỉ là một tập truyện cổ tích, đó là cả một thế giới: thế giới của người Ả Rập trong cuộc đời thực tại, cũng như trong cảnh thần tiên ma quái thế giới của Đạo Hồi từ khi có lịch sử thành văn và Đạo Hồi qua các truyền thuyết dân gian.
Người Ả Rập vẫn cho pho sách này là một tấm gương vĩ đại ai cũng có thể nhìn vào đấy mà suy ngẫm, soi xét bản thân mình. Lời nói đầu trong nguyên bản viết: ''Chuyện người xưa là bài học cho đời này'', và ca ngợi: "Vinh quang thay cho những ai đã góp chuyện người đời xưa để làm bài học dạy người đời nay!”.
Chính từ trong những bài học ấy, nay kể chuyện Nghìn lẻ một đêm với tất cả những điều màu nhiệm và những châm ngôn chứa đựng trong đó''.
Khó mà thưởng thức đầy đủ một tác phẩm văn học của một dân tộc nếu không có những hiểu biết nhất định về thế giới quan, lịch sử và sinh hoạt của dân tộc ấy. Người đọc sẽ không khỏi bỡ ngỡ về nhiều tình tiết trong bộ Tam quốc chí chẳng hạn, nếu không có ít nhiều tri thức về tam cương, ngũ thường, về những quan điểm triết học, xã hội và các thể chế chính trị phong kiến ở Phương Đông; hoặc có thể sẽ ngạc nhiên về chủ đề của Tây Du Ký nếu chưa từng hay biết chút gì về giáo lý của Đạo Phật. Rất nhiều chuyện trong Nghìn lẻ một đêm xoay quanh những câu chuyện xảy ra dưới triều đại một nhà Vua nổi tiếng ở Baghdad vào cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX - Hanrun An-Rasít (786-809); mặt khác, mọi tiêu chuẩn về đạo đức, pháp lý... của người Ả Rập ngay đến bây giờ vẫn dựa trên Kinh Côtan.