LÝ BẠCH
(701 - 762)
Tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, người Miên Châu, tỉnh Tứ Xuyên, là một trong những nhà thơ lớn đời Đường.
Năm 12 tuổi đã biết làm thơ; từ năm 20 tuổi đi chu du các nơi.
Năm Thiên Bảo thứ nhất, đời Đường Huyền Tông, nhờ có người tiến cử, ông được Vua Huyền Tông trọng dụng, cho làm quan trong Viện Hàn lâm. Nhưng sau ba năm lại xin lui về, tiếp tục ngao du sơn thủy. Trong loạn An Lộc Sơn, ông bị ép làm quân sư cho Lý Lân (Vĩnh Vương) nên bị bắt, nhờ có Quách Tử Nghi xin cho nên ông được tha. Ông rất thích uống rượu. Tục truyền một hôm ông say rượu thấy bóng Trăng ở dưới sông muốn ôm lấy, nên bị chết đuối. Nhưng đó chỉ là chuyện giai thoại đàm tiếu.
Sự thực, ông vì đau đã lâu nên mất năm 762. Ông làm rất nhiều thơ nhưng chỉ còn lưu lại được độ hai ngàn bài.
1. Ô DẠ ĐỀ
Hoàng vân thành biên ô dục thê,
Quy phi “á á” chi thượng đề.
Cơ cung chức cẩm Tần Xuyên nữ.
Bích xa như yên cách song ngữ.
Đình thoa trướng nhiên tư viễn nhân
Độc túc cô phòng lệ như vũ.
Dịch nghĩa:
QUẠ KÊU ĐÊM
Bên thành có mây vàng phủ, con quạ muốn tìm chỗ đậu, trở về bay quanh, kêu quác quác ở trên cành cây.
Trong khung cửi cô gái Tần Xuyên đương ngồi dệt gấm, từ trong cửa sổ có rủ một tấm sa biếc như khói, cô rủ rỉ như nói chuyện với quạ.
Dừng thoi bùi ngùi nhớ tới người xa, nghĩ nỗi mình chiếc bóng phòng không, nước mắt như mưa nhỏ xuống.
Dịch thơ:
QUẠ KÊU ĐÊM
Mây vàng tiếng quạ bên thành,
Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu.
Tần Xuyên cô gái buồng thêu
Song xa khói tỏa như khêu chuyện ngoài.
Dừng thoi buồn bã nhớ ai,
Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mưa.
Ngày nay, số 83,
31 – 10 – 1937
TẢN ĐÀ
2. XUÂN TỨ
Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi.
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi.
Dịch nghĩa:
Ý XUÂN
Cỏ ở xứ Yên xanh như tơ biếc,
Dâu ở đất Tần rủ thấp càng xanh.
Đương khi chàng mong nhớ muốn về,
Là lúc thiếp cũng đau lòng nhớ chàng.
Ngọn gió xuân kia ai đâu có quen thuộc gì ngươi
Cớ sao lại lọt vào trong bức màn the của ta?
Dịch thơ:
Ý XUÂN
Cỏ non xanh biếc vùng Yên,
Cành dâu xanh ngả ở bên đất Tần.
Lòng em đau đớn muôn phần,
Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà.
Gió Xuân quen biết chi mà,
Cớ chi lọt bức màn là tới ai?
Ngày nay, số 78
26 – 9 – 1937
TẢN ĐÀ
***
Cỏ Yên biếc mơn mởn,
Dâu Tần xanh mênh mông,
Đương khi chàng nhớ quê,
Ấy lúc thiếp đau lòng.
Gió Xuân chẳng quen thuộc,
Sao dám lọt màn hồng!
TRÚC KHÊ
***
TỨ XUÂN
Cỏ yên như sợi tơ xanh,
Dâu tần xanh ngắt rủ cành xum xuê.
Khi chàng tưởng nhớ ngày về,
Chính là khi thiếp tái tê nỗi lòng.
Gió xuân, ai biết cho cùng,
Cớ sao len lỏi vào trong màn là?
***
NỖI NHỚ ĐẦU XUÂN
Cỏ yên vừa nhú tơ xanh,
Dâu tần đã biếc, lá cành xum xuê.
Khi chàng mong đợi ngày về,
Ấy là khi thiếp tái tê nỗi lòng.
Gió xuân đâu biết cho cùng,
Cớ chi len lỏi vào trong màn là.
L.D.T
3. OÁN TÌNH
Mỹ nhân quyển châu liêm.
Thâm tọa tần nga my,
Đãn kiến lệ ngân thấp,
Bất tri tâm hận thùy.
Dịch nghĩa:
MỐI TÌNH OÁN HẬN
Người đẹp cuốn bức rèm châu lên.
Lặng ngồi chau (nhăn) mày lại.
Người ta chỉ trông thấy những giọt lệ ướt mi nàng
Chứ không biết được lòng nàng oán hận ai?
Dịch thơ:
BUỒN VÌ TÌNH
Người xinh cuốn bức rèm châu,
Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày.
Chỉ hay giọt lệ vơi đầy,
Đố ai biết được lòng này giận ai!
Ngày nay, số 119
17 - 7 – 1938
TẢN ĐÀ
4. TỐNG KHÁCH QUY NGÔ
Giang thôn thu vũ yết,
Tửu tận, nhất phàm phi.
Lô lịch ba đà khứ,
Gia duy toạn ngọa quy.
Đảo hoa khai chước chước,
Đinh liễu tế y y.
Biệt hậu vô dư sự,
Hoàn ưng tảo điếu ky.
Dịch nghĩa:
TIỄN KHÁCH VỀ ĐẤT NGÔ
Xóm bên sông, cơn mưa Thu vừa tạnh,
Rượu vừa cạn chén, một lá buồm ra đi như bay.
Đường đi lướt trên những làn sóng,
Trong thuyền dù ngồi hay nằm cũng sẽ về đến nhà.
Cây trên đảo nở hoa rực rỡ,
Liễu bên bờ rủ tơ tha thướt tha.
Sau lúc chia tay rồi chẳng còn việc gì nữa.
Phủ tấm đã lại ngồi câu cá.
Dịch thơ:
TIỄN KHÁCH ĐI VỀ NGÔ
Sông Thu ngớt hạt mưa tuôn,
Rượu vừa cạn chén, cánh buồm xa bay.
Đường đi trải mấy nước mây,
Ngồi nằm, ai chẳng khó thay đến nhà.
Cây đồi hớn hở ra hoa,
Lăn tăn lá liễu thướt tha bên ngàn.
Xa nhau rồi những thanh nhàn.
Thú chơi quét tấm thạch bàn ngồi câu.
Ngày nay, số 119
17 – 7- 1938
TẢN ĐÀ
5. TÔ ĐÀI LÃM CỔ
Cựu uyển hoang đài dương liễu tân.
Lăng ca thanh xướng bất thăng Xuân.
Chỉ kìm duy hữu Tây Giang nguyệt,
Tằng chiếu Ngô Vương cung lý nhân.
Tiếng hát trong trẻo của những người hái ấu đượm ý xuân.
Song nay chỉ có bóng trăng ở Sông Tây là vật cũ nhất mà thôi.
Nó đã soi những người ở trong cung vua thuở trước.
Đài Cô Tô: Do vua Ngô Hạ Lư khởi tạo rồi đến vua Phù Sai sửa sang cho lộng lẫy, ở trên núi Cô Tô. Người vợ yêu của vua Phù sai là nàng Tây Thi ở đấy, nay thuộc tỉnh Giang Tô.
Vườn cũ: chỉ vườn Quế uyển của vua Ngô.
Đài hoang: tức đài Cô Tô, khi ấy đã hoang quạnh.
Sông Tây: một con sông ở đấy.
Bài này nói Đài Cô Tô, khi ấy đã hoang quạnh.
Sông Tây: một con sông ở đấy.
Bài này nói Đài Cô Tô – vườn cũ đài hoang, dương liễu gặp Xuân tươi tốt, tiếng hát trong trẻo của những người hái ấu ở hồ đầm quanh đấy càng đượm mùa xuân. Nhưng tìm đến vật cũ đã từng chứng kiến cái phồn hoa của cung Ngô thuở xưa thì chỉ có bóng trăng ở trên sông Tây kia vậy. Xem đó thì những cảnh hoa lệ những tình yêu thương ở đời, rút lại đều là thành không hết. Ý hoài cổ của tác giả man mác ở ngoài lời nói.
Dịch thơ:
Vườn cũ đài hoang liễu thướt tha,
Ao Xuân hái ấu tiếng thanh ca.
Sông Tây duy có vầng trăng tỏ,
Từng chiếu cung Ngô khách gấm là.
6. TẢO PHÁT BẠCH ĐẾ THÀNH
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Kinh chu dĩ quá vạn trùng san
Dịch nghĩa:
BUỔI SỚM TỪ THÀNH BẠCH ĐẾ RA ĐI
Buổi sáng từ biệt Thành Bạch Đế ở trên khoảng mây lồng.
Đất Giang Lăng nghìn dặm trong một ngày đã về tới nơi.
Tiếng vượn hai bên bờ kêu hót chưa ngừng.
Con thuyền nhẹ đã đi qua khỏi muôn trùng núi.
* Thành Bạch Đế ở đất Tây Thục, Hoàn vũ ký: Công Tôn Thuật giữ đất Thục, tự xưng là Bạch Đế, đổi Thành Ngư Phúc gọi là Thành Bạch Đế.
* Giang Lăng: Nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, cách Thành Bạch Đế đến 1200 dặm. Con đường thủy này có một đoạn dài đến 700 dặm toàn đi trong khe núi hai bên núi có rất nhiều vượn.
Vì Thành Bạch Đế rất cao nên nói là ở trên khoảng mây lồng. Con đường thủy này nước chảy rất xiết nên chỉ một ngày mà thuyền đã đi nhanh qua được dải đường xa hơn nghìn dặm. Trong khi đi, chưa nghe dứt tiếng vượn kêu ở hai bên bờ tức là chưa hết một buổi sáng, mà thuyền đã ra khỏi quãng muôn trùng núi, cái quãng bảy trăm dặm dài.
Dịch thơ:
Sớm từ Bạch Đế chốn thành mây
Nghìn dặm Giang lăng vút một ngày.
Vượn hót đôi bờ chưa dứt tiếng,
Thuyền qua ngàn núi chóng như bay.
7. TĨNH DẠ TỨ
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa:
Ý LÒNG LÚC ĐÊM VẮNG
Đầu giường trông ra thấy bóng trăng sáng
Ngỡ là sương ở mặt đất
Ngẩng đầu trông trăng sáng
Cúi đầu tưởng nhớ quê hương.
Dịch thơ:
CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng.
Cúi đầu nhớ quê hương.
***
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
TƯƠNG NHƯ
***
Đầu giường ngó bóng trăng soi,
Ngỡ ngàng ngỡ đám sương rơi mặt đường.
Ngẩng đầu trăng sáng như gương,
Cúi đầu sao nhớ quê hương ngàn trùng.
TRÚC KHÊ
8. KÝ VIỄN
Mỹ nhân tại thời, hoa mãn đường,
Mỹ nhân khứ hậu, dư không sàng.
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm, (khởi)
Chí kim tam tải văn dư hương.
Hương diệc cánh bất diệt,
Nhân diệc cánh bất lai.
Tương tư hoàng diệp lạc,
Bạch lộ thấp thanh đài.
Dịch nghĩa:
GỬI PHƯƠNG XA (NHỚ KHÔN NGUÔI)
Khi người đẹp còn ở đây, hoa thơm đầy nhà.
Người đẹp đi rồi, trơ giường trống không.
Trên giường chăn thêu cuộn không đắp,
Ba năm rầy vẫn còn thoang thoảng hương thừa.
Mùi hương ấy cũng không bao giờ mất,
Người cũng không bao giờ về.
Nhớ nhau, lá vàng rụng,
Sương trắng ướt đầm rêu xanh!
Dịch thơ:
Người đẹp còn đây, nhà đầy bông,
Người đẹp đi rồi, giường bỏ không.
Giường không, đệm cuốn, nào ai ngủ,
Nay đã ba năm hương còn xông.
Hương thơm, thơm không dứt,
Người đi, đi không về?
Nhớ nhau lá vàng rụng,
Rêu biếc sương dầm dề.
NGUYỄN HỮU BỒNG
***
Người đẹp còn đây hoa đầy sân,
Người đẹp đi rồi, giường trống không.
Chăn gấm giường không trơ một cuộn
Ba năm như vẫn thoảng mùi hương
Hương kia vẫn còn mãi,
Người đẹp đâu tha phương,
Nhớ nhung lá vàng rụng,
Sương trắng điểm rêu xanh.
***
Người đẹp khi còn hoa đầy phòng,
Người đẹp ra đi giường trống không.
Trong giường mền gấm cuốn không đắp,
Đến nay ba năm hương còn nồng.
Hương còn mãi không hả,
Người đi mãi không về.
Tương tư lá vàng rụng.
Móc trắng đẫm rêu hè.
TRÚC KHÊ
9. HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
Cố nhân Tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch nghĩa:
TẠI LẦU HOÀNG HẠC TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG
Cố nhân từ miên Tây từ giã lầu Hoàng Hạc.
Đương kỳ tháng Ba hoa khói đi xuống Dương Châu.
Một cánh buồm xa mất hút vào cõi không xanh biếc.
Chỉ thấy con sông Trường Giang trôi trong khoảng trời.
* Mạnh Hạo Nhiên: Là một bạn thơ của Lý Bạch.
* Quận Quảng Lăng: thuộc Dương Châu, nay là đất huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô.
* Cố nhân: tức trỏ vào Mạnh Hạo Nhiên.
* Lầu Hoàng Hạc: ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc bây giờ. Đối với Dương Châu thì lầu ấy ở về phía Tây.
* Yên ba: Hoa khói là nói cảnh vật phồn thịnh. Chữ hoa khói ở đây nói cảnh tươi đẹp tháng Ba, lại vừa có ý nói Dương Châu là đất phồn hoa.
Dịch thơ:
Bạn từ lầu Hạc ra đi,
Dương Châu hoa khói đương kỳ tháng ba,
Xanh mờ ngập cánh buồm xa,
Trường Giang hút thẳm trôi qua lòng giời.
***
Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
NGÔ TẤT TỐ
10. HOÀNG HẠC LÂU VĂN ĐỊCH
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Tràng An bất kiến gia
Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc địch
Giang Thành ngũ nguyệt “Lạc mai hoa”.
Dịch nghĩa:
NGHE THỔI SÁO Ở LẦU HOÀNG HẠC
Một lần làm khách đi đày đến Trường Sa
Nhìn về phía Tây Thành Tràng An chẳng thấy nhà
Trong lầu Hoàng Hạc nghe tiếng sáo ngọc
Thành Giang Hạ tháng năm nghe khúc nhạc hoa mai rụng.
Dịch thơ:
Trường Sa đất biếm làm thân khách,
Ngoảnh lại Trường An chẳng thấy nhà
Hoàng Hạc lầu cao nghe sáo ngọc,
Thành giang nghe khúc Lạc mai hoa.
NGÔ VĂN PHÚ
11. XUÂN DẠ LẠC THÀNH VĂN ĐỊCH
Thùy gia ngọc địch ám phi thanh,
Tán nhập Xuân phong mãn Lạc Thành.
Thử dạ khúc trung văn Chiết Liễu,
Hà nhân bất khởi cố viên tình.
Dịch nghĩa:
ĐIỂM XUÂN Ở LẠC THÀNH NGHE SÁO THỔI
Sáo ngọc ở nhà ai thầm bay tiếng ra.
Tiếng sáo tan vào gió Xuân thành ra khắp Thành Lạc đều nghe thấy cả.
Trong những khúc thổi đêm ấy nghe có khúc Chiết Liễu.
Hỏi ai mà không phải động lòng, tưởng nhớ vườn xưa.
* Thành Lạc: tức là Thành Lạc Dương, ở tỉnh Hà Nam bây giờ.
* Khúc: là một bài nhạc: Chiết Liễu là khúc nguời ta để dùng khi tiễn biệt nhau.
* Vườn xưa tức trỏ quê hương.
Dịch thơ:
ĐÊM XUÂN Ở LẠC THÀNH NGHE TIẾNG SÁO
Nhà ai sáo ngọc vẳng đêm thanh?
Theo gió Xuân bay khắp Lạc Thành.
Réo rắt thổi chen bài Chiết Liễu,
Vườn xưa ai khỏi vấn vương tình!
TRÚC KHÊ
***
ĐÊM XUÂN Ở LẠC THÀNH NGHE SÁO THỔI
Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ màng,
Theo gió xuân vào khắp Lạc Dương.
Văng vẳng đêm này bai “Chiết Liễu,”
Ai người không chạnh nỗi tha hương?
TƯƠNG NHƯ
12. THÁI LIÊN KHÚC
Nhược Da khê bạng thái liên nữ,
Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.
Nhật chiếu tân trang thủy để minh,
Phong thiên hương duệ không trung cử.
Ngạn thường thùy gia du dã lang,
Tam tam ngũ ngũ ánh thùy dương.
Tử lưu tê nhập lạc khoa khứ,
Kiến thủ trì trù không đoạn trường.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT HÁI SEN
Cô gái hái sen bên Ngòi Nhược Da,
Cách đoa hoa sen đang tươi cười cùng ai nói chuyện.
Mặt trời chiếu khiến vẻ mặt đẹp mới,
Điểm trang in xuống sáng rõ tận đáy nước.
Gió nhẹ thổi làm bay vạt áo đượm
Hương thơm phảng phất trong không.
Trên bờ có chàng tuổi trẻ nào, dáng điệu tình tứ.
Đi thấp thoáng dưới bóng mấy cây thùy dương (cây liễu) rủ mành.
Con tuấn mã màu tía hý trên đường đầy hoa rụng.
Trông thấy cô gái, chàng ta chần chừ
Đi chằng được mà trong lòng sinh ra
Thương tiếc như đứt từng khúc ruột.
KHÚC HÁT HÁI SEN
Có cô con gái nhà ai,
Hái sen, chơi ở bên Ngòi Nhược Da
Mặt hoa cười cách đóa hoa,
Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh.
Áo quần mặc mới sáng tinh,
Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng.
Thơm tho vạt áo gió tung,
Bay lên phấp phới trong không ngọt ngào.
Năm, ba chàng trẻ nhà nào,
Ngựa hồng rặng liễu, bào cao bóng người.
Ngựa kêu, lần trước hoa rơi,
Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương.
Ngày nay, số 89
10 – 12- 1937
TẢN ĐÀ
13. MẠCH THƯỢNG TẶNG MỸ NHÂN
Bạch mã kiêu thành đạp lạc hoa,
Thùy tiên trục phất ngũ vân xa.
Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc,
Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia.
Dịch nghĩa:
THIÊN ĐƯỜNG TẶNG NGƯỜI ĐẸP
Ngựa trắng đi ngông nghênh giày lên những bông hoa rụng
Cái roi thõng xuống đạp vào cỗ xe năm mây, mỹ nhân mỉm cười vén bức rèm châu lên.
Trỏ một toà lầu hồng phía xa bảo nhà thiếp đấy.
* Xe năm mây: là nói cỗ xe sơn vẽ lộng lẫy như năm sắc mây trên trời.
* Lầu hồng: là nơi ở của những con gái nhà quyền quý cao sang.
Dịch thơ:
Vó ngựa giày trên những cánh hoa,
Đầu roi lướt chạm cỗ xe ngà,
Vén rèm người đẹp cười tươi trỏ.
Nhà thiếp lầu hồng cách phía xa.
14. TẦM UNG TÔN SƯ ẨN CƯ
Quần tiễu bích ma thiên,
Tiêu dao bất kễ niên,
Bát vân tầm cổ đạo.
Ỷ thụ thính lưu truyền.
Hoa hoãn thanh ngưu ngọa.
Tùng cao bạch hạc niên.
Ngữ lai Giang sắc mộ,
Độc tự hạ hàn yên.
Dịch nghĩa:
TÌM ĐẾN CHỖ Ở ẨN CỦA TÔN SƯ HỌ UNG
Bao nhiêu ngọn núi đứng sững, xanh biếc chạm trời, tôn sư tiêu dao ở chốn này, chẳng kể gì đến năm tháng. Nay ta đi vào, vén mây để tìm con đường cũ, dựa cây mà nghe tiếng xuối trôi. Lúc đã đến nơi ta thấy bên rặng hoa ấm áp tiết Xuân có con trâu xanh nằm, trên cành không cao vút có con hạc trắng ngủ. Vừa đương nói chuyện thì trên sông đã đổ bóng tối, ta bèn phải một mình xuống núi len vào đám khói lạnh mà về.
* Trâu xanh, hạc trắng: là những vật của nhà tiên. Lão Tử thường cười trâu xanh, Vương Tử Kiều thường cười hạc trắng, đều là những người tu tiên đắc đạo.
Dịch thơ:
Non xanh nghìn ngọn chờ vờ,
Tiêu dao nào có bao giờ đếm năm.
Vén mây tìm lối u âm,
Tựa cây nghe tiếng rì rầm suối reo.
Trâu nằm dưới rặng hoa thêu.
Thông cao hạc trắng thiu thiu ngủ khì.
Mặt sông chiều xuống đen sì,
Xuyên ngang khói lạnh lần về, một tôi.
TRÚC KHÊ
15. TẠ CÔNG ĐÌNH
Tạ Công ly biệt xứ,
Phong cảnh mỗi sinh sầu,
Khách tán thanh thiên Nguyệt,
Sơn không bích thủy lưu
Trì hoa Xuân ánh nhật,
Song trúc dạ minh Thu.
Kim cổ nhất tương tiếp
Trường ca hoài cưu du.
Dịch nghĩa:
ĐÌNH TẠ CÔNG
Chỗ này là nơi ly biệt của Tạ Công, nhìn phong cảnh cũ mà lòng sinh buồn rầu. Những khách đến họp ở đình này đã tan đi rồi, nhưng Mặt trăng trên trời xanh vẫn còn như xưa. Trong núi quạnh vắng, dòng nước biếc vẫn không ngừng chảy. Bông hoa ở trong ao phơi dưới nắng Xuân óng ánh, khóm trúc bên cửa sổ, kêu trong đêm Thu rì rào. Nay ta đứng đây mơ tưởng ông Tạ, ấy là người nay và người xưa được tiếp cận nhau. Ta cất tiếng hát dài mà nhớ những dấu qua chơi của người trước.
Đình Tạ Công ở phía Bắc phủ Ninh Quốc (An Huy) tức là nơi Tạ Diểu đời Tề tiễn bạn Phạm Vân đi Linh Lăng.
Nắng Xuân, đêm Thu, hai câu 5, 6 dùng những chữ đó để diễn tả cái ý định nơi thời gian đã trôi qua đi lâu xa, và để chuyển xuống hai chữ kim cổ ở dưới.
Dịch thơ:
Tạ Công đưa khách chốn này,
Nhìn phong cảnh cũ buồn ngây ngất buồn.
Quạnh người Trăng vẫn tròn khuôn,
Nước trong núi vắng xô tuôn chẳng ngừng.
Ao Xuân hoa nắng tưng bừng.
Song đêm thu lạnh vang lừng trúc
Cổ kim gần ít cảm nhiều,
Gửi trong tiếng hát bao nhiêu tình hoài.
16. CỔ PHONG, ĐỆ THẬP NHẤT THỬ
Hoàng Hà tẩu Đông minh,
Bạch nhật lạc Tây hải,
Thệ xuyên dữ lưu quang,
Phiêu hốt bất tương đãi
Xuân dung xả ngã khứ
Thu phát dĩ suy cải
Nhân sinh phi hàng tùng,
Niên mạo khở trường tại,
Ngô đương thừa vân ly,
Hấp ảnh trụ quang thái.
Dịch nghĩa:
THƠ CỔ PHONG BÀI THỨ 11
Dòng nước sông Hoàng chạy xuống biển Đông, vầng Mặt trời trắng rụng xuống biển Tây. Dòng nước và ánh sáng vùn vụt đi không chờ ai cả. Cái vẻ Xuân tươi đã bỏ ta đi mất, mái tóc về Thu đã biến đổi màu xưa. Đời người ta nào phải đâu cây thông chịu lạnh, tuổi tác, dung mạo làm sao có thể còn mãi được? Ta nên cưỡi rồng lên trời, hút lấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng để giữ lấy cái tươi trẻ lâu dài.
Dịch thơ:
Sông Hoàng cuồn cuộn về Đông.
Mặt trời nắng nọ sa vùng Biển Tây.
Nước trôi, bóng chạy như bay,
Vụt đi không một phút giây đợi người.
Vẻ xuân lìa bỏ ta rồi,
Tóc Thu này đã pha phôi biến màu.
Thân người phải cội tùng đâu!
Dung nhan sao được bền lâu chẳng già.
Xuân tươi giữ được chăng là,
Cưỡi rồng hút ánh quang hoa đôi vầng.
TRÚC KHÊ
17. PHỎNG ĐÁI THIÊN SƠN ĐẠO SỸ BẤT NGỘ
Khuyển phệ thủy thanh trung.
Đào hoa đới vũ nùng.
Thụ thâm thời kiến lộc,
Khê ngọ bất văn chung.
Dã trúc phân thanh ái,
Phi toàn quải bích phong.
Võ nhân tri sở khứ,
Sầu ỷ lưỡng tam tùng.
Dịch nghĩa:
ĐẾN THĂM ÔNG ĐẠO SỸ Ở NÚI ĐÁI THIÊN KHÔNG GẶP
Chó cắn ở trong tiếng nước chảy, hoa đào nhân những hạt mưa rắc càng đậm đà tươi. Ngàn cây um tùm, thỉnh thoảng có con hươu chạy ra; khe suối đã vào lúc trưa, không nghe thấy có tiếng chuông đánh. Những cây trúc cao ngất chia sẻ cái xanh của màu trời, cái thác nước chảy tóe treo ở trên ngọn núi xanh biếc. Đạo sỹ đi vắng chẳng ai biết là đi đâu cả, mình buồn rầu đứng tựa dưới gốc hai ba cây tùng.
* Núi Đái Thiên ở phía Bắc huyện Chương Minh (quê Lý Bạch) 50 dặm, cũng gọi là núi Đại Khuông hay núi Đại Kháng, nơi Lý Bạch đã từng vào ở và đọc sách.
Bài này hai câu đầu tả cảnh như tưởng tượng nhà tiên ở chốn nguôn Đào. Rồi tiếp xuống chỉ thấy hươu lượn chứ không thấy chuông khua, chứng tỏ rằng đạo sỹ đi vắng. Trước mắt bát ngát kia trúc xanh ngập trời và suối chảy ngang đèo nào ai biết đạo sỹ đi đâu. Mình đành chỉ đứng tựa gốc tùng mà bùi ngùi thôi vậy.
Dịch thơ:
Chó sủa trong tiếng suối,
Hoa đào mưa đượm tươi.
Hươu rừng thấp thoáng bóng,
Chuông ngọ lặng im hơi.
Thác bạc tóc đầu núi,
Trúc xanh chen màu trời.
Đi đâu ai có biết,
Bườn tựa gốc thông chơi.
TRÚC KHÊ
***
Nước reo tiếng chó át,
Đào đẫm hạt sương nồng.
Bụi rậm nhô dầu lộc,
Khe trưa lặng tiếng chuông.
Trời xanh tre chen sắc,
Núi biếc thác treo dòng.
Chủ đi đâu nào biết,
Buồn tựa vài gốc thông.
TRẦN QUANG TRÂN và TƯƠNG NHƯ
18. GIANG THƯỢNG NGÂM
Mộc lan chi tiếp sa đường chu
Ngọc tiêu kim quản tọa lưỡng đầu.
Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc
Tái kỹ tùy ba nhậm (nhiệm) khứ lưu.
Tiên nhân hữu đãi thừa hoàng hạc,
Hải khách vô tâm tùy bạch âu.
Khuất Bình từ phủ huyền Nhật Nguyệt,
Sở vương đài tạ không sơn khâu,
Hứng làm lạc bút dao Ngũ Nhạc,
Khi thành tiếu ngạo lăng Thương Châu
Công danh phú quý nhược trường tại
Hán thủy diệc ưng Tây Bắc lưu.
Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM TRÊN SÔNG
Bánh lái bằng gỗ mộc lan, thuyền bằng gỗ sa đường, hai đầu thuyền thì dàn những sáo vàng kèn ngọc, trong thuyền rượu ngon đeo theo hàng nghìn hộc, chở cả gái chơi lênh đênh trên làn sóng, mặc dầu thuyền muốn đứng hay là muốn đi. Người tiên muốn cưỡi hạc vàng thì còn phải đợi chờ, chứ khách chơi sông bể như mình theo con chim le trắng nổi lênh phênh thì không phải bận lòng tính suy gì cả. Ngoài thú uống rượu đi chơi, còn có cái thú văn chương nữa. Từ phú của Khuất Bình còn như Mặt trời, Mặt trăng cao treo mãi, chứ đài tạ của Vua Sở thì hỏi còn gì? Chỉ còn những đồi núi chơ vơ mà thôi. Lúc rượu say nồng hạ bút xuống, có thể rung động cả những núi Ngũ Nhạc, khi bài thơ làm nhiều thành thì vui cười có thể lấn át cả cảnh tiên ở Gò Thương Châu. Ngẫm ra công danh phú quý ở đời chỉ là những cái bóng thoáng qua chứ không thể dài lâu: nếu những cái ấy dài lâu được thì dễ thường nước sông Hán kia cũng quay ngược dòng mà chảy về phương Tây Bắc được.
Dịch thơ:
Thuyền lan chèo quế buông trôi,
Kèn vàng sáo ngọc để đôi đầu thuyền.
Rượu ngon be đựng hàng nghìn,
Năm ba gái đẹp theo liền trong khoang.
Người tiên chờ cưỡi hạc vàng,
Lăng băng khách bể theo đàn bạch âu.
Cung đền Vua Sở còn đâu?
Văn chương họ Khuất tranh màu nhật tinh.
Rượu say bút múa thơ thành,
Rung non chuyển bể ngông nghênh cợt cười.
Công danh phú quý lâu đời,
Có chăng Tây bắc chảy lùi Hán giang.
19. NGỌC GIAI OÁN
Ngọc giai sinh bạch lộ
Dạ cửu xâm la miệt
Khước há thủy tinh liêm
Linh lung vọng Thu Nguyệt.
Dịch nghĩa:
OÁN HẬN
Trên thềm ngọc đọng lại sương trắng
Đêm dài làm ướt bít tất bằng lụa
Buông rèm bằng thủy tinh xuống
Nhìn thấy Trăng mùa Thu lấp lánh
Dịch thơ:
NỖI OÁN TRONG CUNG (TRÊN THỀM NGỌC)
Móc trắng tươm thềm ngọc,
Đêm dài ướt tất tơ.
Thủy tinh rèm thả xuống,
Lóng lánh ngắm Trăng Thu
TƯƠNG NHƯ