VƯƠNG XƯƠNG LINH
(698 – 765?)
Tự là Thiếu Bá, người đất Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. Đậu tiến sỹ, làm chức Hiệu thư Lang, sau bị biếm ra làm quan úy tại Long Tiêu. Gặp lúc loạn lạc, ông bị Thứ sử Lư Khưu Hiển vì tư thù giết chết.
Vương Xương Linh nổi tiếng thơ hay, được gọi là Thi Thiên tử cũng như Vương Duy là Thi Phật, Lý Bạch là Thi Tiên, Đỗ Phủ là Thi Thánh.
Ông để lại một thi tập gồm quyển.
1. KHUÊ OÁN
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch nghĩa:
NỖI OÁN HẬN CỦA NGƯỜI
THIẾU PHỤ Ở CHỐN PHÒNG KHUÊ
Người thiếu phụ ở chốn phòng khuê,
Không biết đến nỗi buồn rầu.
Ngày xuân trang điểm xong bước lên trên lầu thúy
Chợt thấy ở đầu đường màu xanh tươi của cây dương liễu
Lòng hối hận đã để chồng đi ra trận mà kiếm làm chi
cái ấn phong hầu.
Dịch thơ:
NHỚ CHỒNG
Trẻ trung nàng biết đâu sầu,
Buồng xuân (xanh) trang điểm, lên lầu ngắm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
“Phong hầu” nghĩ dại xui chàng kiếm chi.
Ngày nay, số 77
19 – 9 – 1938
TẢN ĐÀ
2. PHÙ DUNG LẦU TỐNG TÂN TIỆM
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Dịch nghĩa:
TRÊN LẦU PHÙ DUNG
TIỄN TÂN TIỆM
Đang đêm vào đất Ngô, giữa lúc mưa lạnh tràn sông,
Mờ sáng đi tiễn khách bên ngọn núi quạnh hiu đất Sở.
Bạn thân Lạc Dương nếu có lời hỏi thăm,
(Thì thưa hộ rằng tôi) vẫn giữ một mảng lòng băng trong bình ngọc.
Dịch thơ:
Mưa lạnh tràn sông, đêm tới Ngô,
Sáng ra tiễn khách, núi buồn trơ.
Lạc Dương nếu có người thân hỏi,
Một mảnh lòng băng ở ngọc hồ.
TƯƠNG NHƯ
3. TÒNG QUÂN HÀNH
Phong hỏa Thành Tây bách xích lâu,
Hoàng hôn độc toạ hải phong Thu.
Cánh xuy Khương dịch “Quan sơn nguyệt”,
Vô ná kim khuê vạn lý sầu!
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT TÒNG QUÂN
Trên lầu phong hỏa, phía Tây thành cao hàng trăm thước.
Trời thu, gió bể, một mình ngồi dưới bóng hoàng hôn.
Sáo rợ Khương lại khéo vi vu khúc Quan sơn nguyệt.
Khách phòng khuê ở ngoài muôn dặm dạ sầu ra sao?
Dịch thơ:
Khói lửa thành Tây vọi vọi lầu,
Quanh mình gió bể, bóng chiều Thu.
Lại thêm tiếng sáo “Quan sơn nguyệt”,
Muôn dặm phòng khuê xiết kể sầu.
KHƯƠNG HỮU DỤNG