TRƯƠNG CỬU LINH
(678 - 740)
Tự là Tử Thọ, người Thiều Châu, huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông. Làm quan đến chức Thượng thư Hữu Thừa tướng, tính cương trực, không xu phụ nên bị Lý Lâm Phủ là Tể tướng tâu với nhà vua bãi chức ông và biếm ông đi làm trưởng sử ở Kinh Châu rồi mất ở đó.
Ông để lại một Văn tập gồm 20 quyển.
1. TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ
Tự quân chi xuất hỹ,
Bất phục lý tàn ky.
Tư quân như Nguyệt mãn,
Dạ dạ giảm quang huy.
Dịch nghĩa:
TỪ BUỔI CHÀNG RA ĐI
Từ buổi chàng ra đi,
Thiếp không buồn sửa cái khung cửi đã bị hư nát.
Thiếp luôn nhớ chàng, như vầng Trăng dầy kia,
Cứ đêm đêm giảm dần đi ánh sáng.
Dịch thơ:
TỪ NGÀY CHÀNG BƯỚC RA ĐI
Từ ngày chàng bước ra đi,
Cửi canh bỏ dở, nghĩ gì sửa sang.
Nhớ chàng như Nguyệt trong gương,
Tiêu hao ánh sáng, đêm thường lại đêm.
Ngày nay, số 116
26 – 6 – 1938
TẢN ĐÀ
***
Từ ngày chàng bước chân đi,
Cái khung dệt cửi chưa hề dúng tay.
Nhớ chàng như mảnh Trăng đầy,
Đêm đêm vừng sáng, hao gày đêm đêm.
NGÔ TẤT TỐ
2. VỌNG NGUYỆT HOÀI VIỄN
Hải thượng sinh minh Nguyệt,
Thiên thai cộng thử thì.
Tình nhân oán dao dạ,
Cánh tịch khởi tương ti (tư).
Diệt chúc liên quang mãn,
Phi y giác lộ ti.
Bất kham doanh thủ tặng,
Hoàn tẩm mộng giai kỳ.
Dịch nghĩa:
NGẮM TRĂNG NHỚ NGƯỜI XA
Trăng mọc khắp trên biển,
Cùng lúc này soi chung cả tận chân trời.
Đêm xa cách, người có tình, ai chẳng buồn,
Suốt đêm trường gợi tấm lòng nhớ nhau.
Tắt đèn đi vì yếu ánh sáng chan hòa.
Khoác áo vào mới biết sương móc thấm ướt.
Khó lòng lấy tay vốc ánh Trăng để tặng nhau được,
Ngủ đi, may được gặp gỡ trong giấc mơ.
Dịch thơ:
NGẮM TRĂNG NHỚ NHÀ
Vầng trăng mọc ở bể khơi,
Cùng trong một lúc, góc trời soi chung.
Đêm xa ai đó sầu mong,
Thâm canh ai nhớ, mơ màng nhớ ai?
Tắt đèn yêu bóng nga soi,
Khoác lên chiếc áo, đượm mùi sương pha,
Khôn đem ánh sáng cho mà,
Ngủ đi, trong mộng hòa là gặp nhau.
NGUYỄN HỮU BỒNG