Tài liệu: Vương Duy (701 - 761)

Tài liệu
Vương Duy (701 - 761)

Nội dung

VƯƠNG DUY

(701 - 761)

            Tự là Ma Cật, người Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Nổi tiếng về thơ lại còn sành âm nhạc, giỏi về thư pháp và hội họa. Đậu tiến sỹ, làm quan đến chức Thượng thư Hữu Thừa.

            Ông là nhà thơ sơn thủy nổi tiếng, Tô Thức đã nói: “Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem họa Ma Cật thấy trong họa có thơ”.

            Thơ ông lại nhuốm tư tưởng Phật giáo nên ông được gọi là Thi Phật.

            1. TƯƠNG TƯ

Hồng đậu sinh Nam quốc,

Xuân lai phát kỷ chi?

Nguyện quân đa thái hiệt,

Thử vật tối tương tư.

Dịch nghĩa:

Đậu đỏ[1] sinh ở phương Nam

Mùa Xuân đến, nẩy bao nhiêu cành rồi?

Xin bác hái cho nhiều,

Vật ấy rất gợi tình nhớ nhau.

            Dịch thơ:

Đậu hồng sinh ở miền Nam,

Đến Xuân này lại nở thêm mấy cành?

Lượm về nhiều nhé hỡi anh,

Giống này mới thật nặng tình tương tư.

NGUYỄN HỮU BỒNG

            2. TỐNG NGUYÊN NHỊ SỨ AN TÂY

Vị thành triêu vũ ấp khinh trần,

Khánh xá thanh thanh liễu sắc tân.

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,

Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.

            Dịch nghĩa:

TIỄN BÁC HAI NGUYÊN ĐI SỨ AN TÂY[2]

Đất Vị Thành[3] mưa sớm thấm làn bụi nhẹ,

Nơi quán khách liễu mới đổi màu xanh rờn.

Mời bác hãy uống cạn thêm chén nữa,

Đi về phía Tây, ra khỏi Dương Quan[4]

Sẽ không có ai là cố nhân nữa.

            Dịch thơ:

Mưa mai thấm bụi Vị Thành,

Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời.

Khuyên anh hãy cạn chén mời,

Dương Quan ra khỏi ai người cố tri.

TƯƠNG NHƯ

***

Sáng ra thành vị mưa vùi,

Loi thoi bên quán mấy chồi liễu xanh.

Mời anh cạn hết chén quỳnh,

Dương Quan ra đó một mình quen ai.

K.D

            3. MẠNH THÀNH AO

Tân gia Mạnh Thành khẩu,

Cổ mộc dư suy liễu

Lai giả phục vi thùy?

Không bi tích nhân hữu.

            Dịch nghĩa:

            THUNG MẠNH THÀNH[5]

Mới dời nhà đến cửa thung Mạnh Thành,

Cây cổ còn lại và gốc liễu cỗi.

Sau ta, người ở đây là ai?

Xót xa làm gì khi thấy những cái của người trước.

            Dịch thơ:

Mạnh Thành dựng một ngôi nhà,

Dấu xưa còn lại năm ba liễu gầy.

Biết sau ai ở chốn này,

Ích gì buồn cảnh trước ngày có ta.

K.D

 

           

 

4. TỐNG BIỆT

Sơn trung tương tống bãi,

Nhật mộ yểm sài phi.

Xuân thảo minh niên lục,

Vương tôn quy bất quy?

            Dịch nghĩa:

            TIỄN BIỆT

Ở trong núi vừa tiễn nhau xong,

Trời đã về chiều, đóng cửa sài[6] lại.

Sang năm cỏ Xuân lại xanh rờn,

Vương tôn liệu đã về hay chưa?

            Dịch thơ:

            TIỄN BIỆT

Trèo non tiễn bạn vừa xong,

Non chìm bóng ác cửa lồng then mây.

Cỏ xanh Xuân mới mọc đầy,

Vương tân kia hỡi về hay chăng về?

NGUYỄN HỮU BỒNG

            5. ĐIỂU MINH GIẢN

Nhân nhà quế hoa lạc,

Dạ tĩnh Xuân sơn không.

Nguyệt xuất kinh sơn điểu,

Thời minh tại giản trung.

            Dịch nghĩa:

KHE CHIM KÊU

Người thảnh thơi, hoa quế rụng,

Đêm im lặng, non Xuân vắng không.

Ánh trăng ló lên làm chim núi giật mình,

Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối.

            Dịch thơ:

Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,

Đêm Xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.

Trăng lên, chim núi giật mình,

Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.

NGÔ TẤT TỐ

***

Người nhàn hoa quế rụng,

Đêm Xuân núi vắng teo,

Trăng lên chim núi hãi,

Dưới khe chốc chốc kêu.

TƯƠNG NHƯ

 

 

 

           




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1057-02-633389293108472028/Tho-Duong-dinh-cao-cua-ngon-ngu-van-minh-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận