Tài liệu: Trương Nhược Hư

Tài liệu
Trương Nhược Hư

Nội dung

TRƯƠNG NHƯỢC HƯ

 

            Sống khoảng trước sau năm 771, người Dương Châu (nay là huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô). Ông không thích danh lợi, thường ngao du khắp thiên hạ để tìm bạn thơ. Ông cùng nổi tiếng với Bao Dung, Hạ Tri Chương, Trương Húc. Người đương thời gọi là “Ngô trung tứ sỹ” (Bốn danh sỹ đất Ngô).

            Thơ Trương Nhược Hư nay chỉ còn lại có hai bài mà bài Xuân giang hoa nguyệt dạ được kể là một bài rất nổi tiếng.

            XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ

Xuân giang triều thủy liên hải bình,

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.

Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,

Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.

Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,

Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển.

Không lý lưu sương bất giác phi,

Đính thượng bạch ra khan bất kiến.

Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,

Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.

Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt,

Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân.

Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,

Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.

Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân,

Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.

Bạch vân nhất phiến khứ du du,

Thanh phong giang thương bất thăng sầu.

Thùy gia kim dạ biên chu tử.

Hà sứ tương tư minh nguyệt lâu.

Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,

Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.

Ngọc hộ liêm trưng quyển bất khứ,

Đảo y châm thượng phất hoàn lai.

Thử thời tương vọng bất tương văn,

Nguyệt trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.

Hồng nhạn trường phi quang bất độ,

Như long tiềm dược thủy thành văn.

Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,

Khả liên xuân bán bất hoàn gia.

Giang thủy lưu Xuân khứ dục tận,

Giang đàn lạc nguyệt phục tây tà.

Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,

Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.

Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,

Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.

            Dịch nghĩa:

            ĐÊM HOA TRĂNG TRÊN SÔNG XUÂN[1]

Thủy triều lên mặt sông Xuân ngang mặt bể,

Trên bể, trăng sáng cùng lên với thủy triều.

Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,

Có nơi nào trên sông Xuân là không sáng trăng?

Dòng sông lượn vòng khu cồn hương thơm,

Trăng chiếu rừng hoa ngời như hạt tuyết.

Trên không sương trôi tưởng như không bay.

Bãi sông cát trắng, nhìn chẳng nhận ra.

Sông và trời, một màu không mảy bụi,

Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi.

Người bên sông, ai kẻ đầu tiên rọi xuống người?

Người sinh đời đời không bao giờ hết,

Trăng trên sông ngàn năm ngắm vẫn y nguyên.

Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai,

Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy.

Mây trắng một dải, vẩn vơ bay,

Cây phong biếc xanh trên bờ buồn khôn xiết.

Người nhà ai đêm nay dong con thuyền nhỏ?

Người nơi nao trên lầu trăng sáng đương tương tư?

Đáng thương cho trên lầu trăng bồi hồi,

Phải chiếu sáng đài gương thật biệt ly.

Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi, trăng vẫn không đi,

Phiến đá đập áo lau đi rồi, trăng vẫn cứ ở lại.

Giờ đây cùng ngắm trăng mà không cùng nghe tiếng nhau,

Nguyện theo ánh đẹp vầng trăng trôi tới chiếu sáng người anh.

Chim hồng nhạn bay dài không thể mang trăng đi.

Cá rồng lặn nhảy, chỉ khiến làn nước gợn sóng.

Đêm qua thanh vắng, mơ thấy hoa rơi,

Đáng thương cho người đã nửa mùa xuân chưa về nhà.

Nước sông trôi xuôi, Xuân đi sắp hết,

Trăng lặn trên bãi xông, trăng xế về Tây.

Trăng xế chim dần dần trong sương mù mặt bể,

Núi Kiệt Thạch, sông Tiêu Tương đường thẳm không cùng.

Chẳng biết nhân ánh trăng đã mấy người về,

Trăng lặn, rung rinh mối tình những cây đầy sông.

Dịch thơ:

Sông xuân triều dậy mặt biển bằng,

Trên biển trăng cùng triều nước dâng.

Dờn dợn vờn theo muôn dặm sóng,

Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng.

 

Quanh co sông lượn cồn hương chảy,

Trăng chiếu rừng hoa như tuyết rải.

Từng không sương tỏa tưởng không bay,

Cát trắng bên doi nhìn chẳng thấy.

 

Trong vắt trời sông suốt một màu,

Trên sông vằng vặc một trăng cao.

Ai người đầu đã trông trăng ấy,

Trăng ấy soi người tự thu nao?

 

Người cứ đời đời sinh nở mãi,

Trăng vẫn ngàn năm sông nước giãi.

Soi ai? Nào biết được lòng trăng,

Chỉ thấy sông dài đưa nước chảy.

 

Mây bạc lưng chừng trôi đến đâu,

Cành phong xanh bến xiết bao sầu.

Đêm nay ai mảng buông thuyền đó,

Ai ở lầu trăng nhớ chốn nào?

 

Trăng lầu quanh quẩn đáng thương ôi!

Soi mãi đài gương kẻ lẻ đôi.

Cửa ngọc cuốn rèm xua vẫn ở,

Hòn châm đập áo xóa liền soi.

 

Chừ đây cùng ngóng, bẵng tăm hơi,

Mong quyến theo trăng đến rọi người.

Bay mỏi, nhạn khôn mang ánh được,

Vẫy ngầm, cá chỉ vẫy tăm thôi.

 

Đêm qua thanh vắng mộng hoa rơi,

Nhà chửa về, Xuân quá nửa rồi!

Nước cuốn Xuân đi trôi sắp hết,

Vòm sông trăng lại xế sang đoài.

 

Trăng khuất mù khơi nhìn chậm chậm,

Dòng Tương non Kiệt ngàn muôn dặm.

Nương trăng mấy kẻ nhớ về theo,

Trăng lặn xao tình cây nước gợn.

KHƯƠNG HỮU DỤNG        

 

 

 

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1057-02-633389293642378278/Tho-Duong-dinh-cao-cua-ngon-ngu-van-minh-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận