Tài liệu: Sầm Tham (710 - 770)

Tài liệu
Sầm Tham (710 - 770)

Nội dung

SẦM THAM

(710 - 770)

            Người huyện Nam Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Đậu tiến sỹ, làm quan đến chức Lang Trung kiêm Thị ngự sử tuy có bị thăng giáng nhiều lần. Sau ông từ chức, về ở núi Đỗ Lăng, rồi mất ở đất Thục. Ông có trải nhiều năm ở nơi biên ải nên có làm nhiều bài thơ biên tái từ điệu rất cao.

            Có Thi tập gồm 10 quyển.

 

1. SƠN PHÒNG XUÂN SỰ

Lương viên nhật mộ loạn phi nha.

Cựu mục tiêu điều tam lưỡng gia.

Đình thụ bất tri nhân khứ tận,

Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.

Dịch nghĩa:

            CẢNH XUÂN TRONG NẾP NHÀ TRÊN NÚI

Trong vườn Lương[1], lúc chiều tà những con qua bay hỗn loạn.

Trông hết cả tầm mắt cũng chỉ thấy hai ba nhà tiêu điều.

Cây trong sân không biết rằng người ta đã đi hết.

Xuân về lại nở những bông hoa thời xưa.

            Dịch thơ:

            CẢNH XUÂN NHÀ TRÊN NÚI

Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ,

Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa,

Cây Xuân chẳng biết người đi hết,

Xuân đến hoa còn nở giống xưa.

TẢN ĐÀ

***

Trời, vườn Lương quạ dập dìu,

Nhà xa mấy nóc cảnh đìu hiu.

Cây sân chẳng biết người đi hết,

Xuân tới, hoa xưa vẫn nở đều.

NGÔ TẤT TỐ

 

 

            2. TẨU MÃ XUYÊN HÀNH, PHỤNG TỐNG PHONG ĐẠI PHU

XUẤT SƯ TÂY CHINH

Quân bất kiến Tẩu Mã xuyên hành tuyết hải biên,

Bình xa mãng mãng hoàng nhập thiên.

Luân Đài cửu nguyệt ong dạ hống,

Nhất xuyên toái thạch đại như đấu,

Tùy phong mãn địa thạch loạn tẩu.

Hung Nô thảo hoàng mã chính phi,

Kim Sơn Tây kiến yên trần phi,

Hán gia đại tướng Tây xuất sư.

Tướng quân kim giáp dạ bất thoát,

Bán dạ quân hành qua tương bát,

Phong đầu như đao, diện như cát.

Mã mao đái tuyết hãn khí chưng,

Ngũ hoa liên tiền truyền tác băng,

Mạc trung thảo hịch nghiễn thủy ngưng.

Lỗ kỵ văn chi ưng đởm nhiếp,

Liệu chi đoản kinh bất cảm tiếp,

Xa Sư Tây môn trữ hiến tiệp.

            Dịch nghĩa:

            BÀI HÁT “SÔNG TẨU MÔ[2] TIỄN ĐẠI PHU HỌ PHONG[3]

            XUẤT QUÂN ĐÁNH GIẶC PHƯƠNG TÂY

Ngươi thấy chăng, sông Tẩu Mã chảy ven bể tuyết

Bãi cát phẳng mênh mông, vàng khè giáp chân trời.

Đất Luân Đài[4], tháng chín, ban đêm gió gầm.

Cả một dọc sông, đá vụn to như đấu,

Theo gió lăn lóc đầy mặt đất.

Đất Hung Nô, mùa cỏ vàng, chính là lúc ngựa đang béo,

Nhìn về phía núi Kim sơn[5] ở phía Tây: khói mịt mù.

Đại tướng nhà Hán ra quân nhằm tiến về phía đó.

Áo giáp sắt trên mình, đêm cũng không cởi,

Nửa đêm hành quân, giáo mác chạm nhau,

Ngọn gió buốt như dao cắt mặt.

Lông ngựa đọng tuyết, mồ hôi bốc hơi,

Đồ thắng trên mình ngựa năm hoa, thoắt đã đọng váng,

Mực trên nghiên đang thảo hịch trong trước cũng đóng thành băng.

Đội kỵ binh giặc nghe thấy, hẳn phải mất mật,

Tự biết gươm ngắn, không dám đến gần,

Trước cửa Tây nước Xa Sư[6] ta đang chờ dâng tin thắng trận.

            Dịch thơ:

Người thấy chăng.

Tẩu Mã xuyên bể tuyết ngời,

Cát vàng bát ngát tận chân trời?

 

Luân Đài tháng chín gió đêm rú,

Lòng sông, đá vụn to như đấu,

Gió đẩy chạy bừa khắp trong xứ.

 

Hung Nô cỏ vàng, ngựa béo quay,

Kim Sơn khói bụi ngút miền Tây,

Hán triều đại tướng xuất binh ngay.

 

Thâu đêm tướng quân mặc áo sắt,

Loảng xoảng giáo gươm đi khuya khoắt,

Ngọn gió như dao thổi rách mặt.

 

Tuyết đầm mình ngựa hơi bốc lên,

Ngựa hoa băng đóng cộm cương yên,

Trong doanh viết hịch váng đầy nghiên.

Địch quân vừa nghe đã khủng khiếp.

Tự biết sức hèn không đánh tiếp.

Cửa Tây ta chờ tin báo tiệp.

CHÂU GIANG và TƯƠNG NHƯ

           




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1057-02-633389293986909528/Tho-Duong-dinh-cao-cua-ngon-ngu-van-minh-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận