Tài liệu: Ấn Độ - Hàng không dân dụng

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Việc vận chuyển đường hàng không ở Ấn Độ nằm dưới sự giám sát của Cục Hàng không Dân dụng,
Ấn Độ - Hàng không dân dụng

Nội dung

HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG

Việc vận chuyển đường hàng không ở Ấn Độ nằm dưới sự giám sát của Cục Hàng không Dân dụng, một bộ phận của Bộ Hàng không Dân dụng và Du lịch Ấn Độ. Năm 1995 nhà nước Ấn ĐỘ sở hữu hai công ty hàng không và một công ty dịch vụ trực thăng, và các bộ phận tư nhân sở hữu sáu công ty hàng không.

Những công ty hàng không của nhà nước đã chiếm ưu thế trong các hoạt động vận chuyển bằng đường hàng không vào giữa thập kỷ 1990. Air India là một công ty hàng không quốc tế, đã chuyên chở hơn 2,2 triệu lượt khách vào năm 1992. Indian Airlines là một công ty nội địa lớn và cũng đảm trách các chuyến bay quốc tế đến các nước lân cận. Công ty này đã chuyên chở 9,8 triệu lượt khách vào năm 1989, với số lượng 59 phi cơ.

Một công ty thứ ba thuộc quyền sở hữu nhà nước, Vayudoot, cũng là một công ty nội địa trong đầu thập kỷ 1990. Công ty này phục vụ các tuyến bay trung chuyển từ các thành phố nhỏ đến những thành phố lớn hơn có dịch vụ của Air India và Indian Airhnes. Năm 1994 Indian Airlines đã sát nhập Vayudoot. Một công ty nhà nước khác, Pawan Hans, chuyên về các dịch vụ trực thăng, chở khách đến những địa điểm ngoài khơi và các vùng mà máy bay có cánh không thể tiếp cận được.

Trong năm 1995, sáu công ty tư nhân chiếm tỉ lệ 10% lượng chuyên chở nội địa. Trong đó có 4 công ty lớn là East West Airlines, Jagsons Airlines, Continentai Aviation, và Damania Airways.

Ngoài các công ty hàng không do Ấn Độ sở hữu, nhiều công ty nước ngoài cũng cung ứng các dịch vụ bay quốc tế. Trong năm 1995 có 42 công ty thực hiện các địch vụ bay từ Ấn Độ, đến Ấn Độ và xuyên qua Ấn Độ.

Vào giữa thập niên 1990, Ấn Độ có 288 phi trường có thể sử dụng được. Trong số này, 2 phi trường có đường băng dài hơn 3.659 mét, 59 phi trường có đường băng từ 2.400 mét đến 3.659 mét, và 92 phi trường có đường băng từ 1.200 đến 2.439 mét. Có những phi trường quốc tế lớn tại Bombay, Delhi, Calcutta, Madras, và Thiruvananthapuram, dưới quyền quản lý của Nhà Chức trách Sân bay Quốc tế Ấn Độ.

Các dịch vụ bay quốc tế cũng được phục vụ tại Marmagao, Bangagore, và Hyderabad. Một nhóm các công ty Ấn Độ và Anh Quốc đã ký một hợp đồng ghi nhớ vào năm 1995 để xây dựng một sân bay quốc tế mới tại Bombay. Những phi trường địa phương lớn tọa lạc ở Ahmadabad, Allahabad, Pune, Srinagar, Chandigarh, Kochi, và Nagpur.

Nông nghiệp ở Ấn Độ là phương tiện sống của gần hai phần ba lực lượng lao động trong cả nước. Đây luôn luôn là bộ phận kinh tế quan trọng nhất của Ấn Độ. Thập kỷ 1970 chứng kiến một sự gia tăng lớn về sản lượng lúa mì của Ấn Độ, báo trước một Cuộc Cách mạng Xanh cho đất nước này. Sự gia tăng về sản lượng nông nghiệp trong thời kỳ độc lập là kết quả của việc đưa thêm đất đai vào canh tác, việc mở rộng các phương tiện tưới tiêu sử dụng hạt giống tốt hơn, kỹ thuật tốt hơn, việc quản lý nước, và bảo vệ mùa màng.

Sự lệ thuộc của Ấn Độ đối với việc nhập khẩu nông sản vào đầu thập niên 1960 đã làm cho các nhà kế hoạch tin rằng sự gia tăng dân số của Ấn Độ, cũng như những mối quan tâm về nền độc lập an ninh và sự ổn định chính trị của đất nước đòi hỏi phải có sự tự cung tự cấp về thực phẩm. Quan điểm này đã dẫn tới một chương trình cải tiến nông nghiệp gọi là cuộc Cách mạng Xanh, dẫn tới một hệ thống phân phối công cộng và sự hỗ trợ về giá cho nông dân. Sự tăng trưởng về sản lượng ngũ cốc là kết quả của những nỗ lực tập trung nhằm tăng cường đầu vào của cuộc Cách mạng Xanh cần thiết cho sản lượng cao hơn: hạt giống tốt hơn, thêm nhiều phân bón hơn, việc tưới tiêu được cải tiến, và việc giáo dục nông dân. Mặc dù việc tăng cường tưới tiêu đã giúp giảm bớt sự dao động về sản lượng hàng năm do sự thất thường của gió mùa, việc này cũng không xóa bỏ được sự dao động đó.

Những loại mùa màng phi truyền thống của Ấn Độ, chẳng hạn như mung (một dạng của đậu lăng), đậu nành, đậu phụng, và hướng dương, đã dần dần đạt được tầm quan trọng của chúng. Đã có những bước trong kế hoạch nhằm đảm bảo sự gia tăng nguồn cung ứng phân bón phi hóa học ở một giá phải chăng. Trong nước có 53 phòng thí nghiệm kiểm soát chất lượng phân bón. Nhận thức được tầm quan trọng của việc sản xuất nông nghiệp cho sự phát triển kinh tế, chính quyền trung ương đã đóng một vai trò chủ động về tất cả các khía cạnh của sự phát triển nông nghiệp. Các chính sách về thực phẩm và giá cả đã được chính quyền trung ương quyết định. Do đó, mặc dù nông nghiệp ở Ấn Độ thuộc về trách nhiệm của các bang hơn là của chính quyền trung ương, chính quyền trung ương vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành chính sách và cung ứng nguồn tài chính cho nông nghiệp.

Tuy nhiên gió mùa đã đóng một vai trò quan trọng trong nông nghiệp của Ấn Độ trong việc quyết định xem mùa màng có bội thu, hay ở mức trung bình, hoặc thất bát. Một trong những mục tiêu của các chính sách nhà nước vào đầu thập niên 1990 và tìm những phương pháp để làm giảm sự lệ thuộc vào gió mùa.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1954-02-633468740099531250/Kinh-te/Hang-khong-dan-dung.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận