Tài liệu: Những chiếc thuyền của Khufu ở Kim tự tháp lớn

Tài liệu
Những chiếc thuyền của Khufu ở Kim tự tháp lớn

Nội dung

1954

Những chiếc thuyền của Khufu ở Kim tự tháp lớn

1956 Nefruptah

1957 Đầu tượng của vua Userkaf

Khám phá / khai quật 1954 bởi Kamal el-Mallakh

Địa điểm Giza (bên phía Nam của kim tự tháp lớn)

Thời kỳ Vương quốc cổ, Triều đại thứ 4, vương triều Khutu, 2551 - 2528 TCN

“Như một con mèo... tôi nhắm mắt lại. Và rồi với đôi mắt nhắm nghiền, tôi ngửi thấy mùi hương, một mùi rất, rất linh thiêng. Tôi ngửi thấy mùi thời gian…Tôi ngửi thấymùi thế kỷ… Tôi ngửi thấy lịch sử. Và rồi tôi chắc chắn là chiếc thuyền ở đây”.

KAMAL EL-MALLAKH

Vào 1954, Kamal el-mallakh, là một viên thanh tra trẻ của sở cổ vật trước khi nổi tiếng trong giới báo chí, đang hướng dẫn công việc dọn quang thường ngày dọc theo tường ranh giới phía nam của kim tự tháp lớn ở Giza thì ông chợt thấy một đường vữa màu hồng mỏng. Đường vữa này minh chứng một bờ hố dài, hẹp, sắp xếp từ đầu này đến đầu kia - mà ở phía tây được phủ trên 40 phiến đá vôi nặng nề, phía đông với 41 tảng như thế. Nghiên cứu những phiến đá hố phía đông kỹ hơn, el - Mallakh tìm thấy một biểu tượng của nhà xây dựng - một khuôn triện mang tên Djedefre, người kế nhiệm Khufu giữ ngai Ai Cập, đã ra lệnh đặt những tấm đá - mỗi tấm nặng trên 16 tấn - ở đây.

(Phải) Kamal el-mallakh nhà kiến trúc - khảo cổ học trẻ, người đầu tiên chú ý đến các hố những miếng mỏng - phủ thuyền. Sự bền bỉ của ông khi tiếp tục việc thám hiểm đã dẫn đến một sự khám phá làm cả thế giới sửng sốt. (Trái) Thuyền của vua Khufu được chụp nguyên trạng khi tìm thấy ở hố đầu tiên do Kamal el-Mallakh khám phá. 1224 mảnh gỗ tuyết tùng, keo và các thứ gỗ khác phải mất trên 10 năm để ghép lại.

1956 NEFRUPTAH

Ngôi mộ còn nguyên vẹn của Nefruptah, được mọi người tin rằng là con gái của Ammenemes III thuộc triều đại thứ 12, được các viên chức của sở cổ vật Ai Cập phát hiện ở dưới một kim tự tháp xây bằng gạch mộc bị tàn phá , vào năm 1956, cách khoảng 2km (11/4 miles) về phía tây nam của chính phức hợp kiến trúc băng mộ của vị vua ở Hawara. Quan tài bằng gỗ bên trong và những tàn tích hữu cơ đã phân hủy, nhưng từ lớp bùn thấm nước phía dưới quách bằng đá granit đen, đã được tìm thấy những bộ phận hợp thành (kể từ khi được khôi phục lại) của một bộ sưu tập phong phú những đồ tùy táng bùa chú của chủ nhân - ấn tượng sâu sắc nhất là một vòng cổ đầu chim ưng (Cairo, JE 90100); cùng một tạp dề, vòng cổ tay, những vòng cổ chân, cái đập lúa bằng tay (JE 90200), và các món khác bằng vàng, carnelian và fenspat.

Khó khăn mà el-Mallakh phải đối phó là thuyết phục thượng cấp ở Sở cổ vật nên đầu tư lâu hơn cho khám phá của ông. Vấn đề là ông ta không tìm thấy gì hơn là một đoạn của nền móng kim tự tháp, hay một phần của sân triều đình lát đá. Nhưng vào ngày 26/5 ông ta đục một lỗ vào tảng đá thứ 22 phủ hố phía đông và buồn ngọn đuốc vào ánh đuốc chiếu sáng rõ một đống thoạt nhìn giống một đống củi; rồi đầu của một mái chèo lớn hiện ra trước mắt - và el-Mallakh nhận ngay ra ở trước mắt ông là một con thuyền kích thước lớn, đầy đủ bộ phận đã bị tháo gỡ thành từng miếng từ buổi đầu của lịch sử Ai Cập. Và có lẽ cái khác cũng nằm bên cạnh.

Việc khám phá những hố thuyền, với nội dung còn nguyên vẹn, đã tạo ra một cơn bão chú ý quốc tế - và xúi bẩy sự ghen tị trong Sở cổ vật, khiến sự nghiệp khảo cổ học đầy hứa hẹn của el-Mallakh không bao giờ phục hồi.

Khai quật và xây dựng lại

Những chiếc thuyền như thế và nơi đặt để chúng đã được phát hiện trước đây - do de Morgan ở Dahshur, của thời vương quốc giữa - và được tìm thấy lần nữa - gần đây nhất là hạm đội 12 được David O’Connor phát hiện ở Abydos vào năm 1991, có niên đại từ thời triều đại sớm; nhưng những phát hiện ở Giza vẫn còn bảo lưu, đã là trong một thứ bậc riêng của chúng.

1957 – Đầu vua Userkaf

Chiếc đầu bằng vữa xám có râu mép của một vị vua đội vương miện đỏ của hạ Ai Cập (Cairo JE 90220) được khám phá vào mùa xuân 1957 ở Abusir. Đây là kết quả của nhóm hợp tác Đức - Thụy Sĩ dưới sự chỉ huy của Herbert Kicke. Tất nhiên, đó là chân dung của vị vua triều đại thứ V Userkaf, tìm thấy trong những tàn tích của đền thờ mộ ông cùng các mảnh vỡ khác. Chất lượng của tác phẩm thật tuyệt vời và việc nó giống hệt với các chân dung của Menkaure thật ấn tượng. Chẳng phi lý, nó có nguồn gốc từ cùng một xướng điêu khắc.

Chiếc thuyền lớn giờ được trưng bày ở Bảo tàng thuyền Giza mang ít tương đồng với những đống sắp xếp gọn gàng của những thanh chống bụi bặm và những bộ phận mà ngọn đuốc đầu tiên phát giác ở hố phía đông. Chiếc thuyền mà chúng ta thấy là thành tích của một người – Hag Ahmed Youssef Moustafa, người phục chế chính trong sở cổ vật, làm việc dưới sự giám sát của Tiến sĩ Zaki Iskander, nhà khoa học chính của bộ phận.

Cảm ơn sự bịt kín gió của những miếng mỏng lợp mái, đã che gió cho hiện vật, môi trường của hố thuyền, được duy trì cố định và điều kiện của các vật chứa - sắp xếp thành 13 lớp rõ rệt - hoàn toàn cứng cáp. Tiếp theo sự bảo quản sơ khởi của vải bọc và thảm, vào tháng 12 năm 1955 công việc tinh vi bắt đầu di dời. Vào cuối tháng 6 năm 1957, hố trống rỗng, và mùa thu năm sau Hag Ahmed có thể chú tâm vào việc phục dựng lại 651 thành tố (1224 mảnh rời) của gỗ tuyết tùng, keo và các thứ gỗ khác tìm thấy trong vùng giờ đáng trước mặt ông trong nhà kho phục chế ở Giza.

(Trái) Hag Ahmed Youssed Moustafa trong xưởng. Vì kích thước khổng lồ của chiếc thuyền Khufu, phần lớn công việc sơ khởi của việc phục chế được hoàn tất là nhờ sự trợ giúp của những mô hình:có tỉ lệ thu nhỏ. (Phải) Các phụ tá của Hag Ahmed kiểm tra lại những xà đã buộc trong việc khôi phục lại cuối cùng.

Hỗ trợ Hag Ahmed trong công việc phục chế là nhờ cách bố trí của những mảnh rời trong hố phản ánh trật tự kế tiếp nhau của chiếc thuyền được người ta tháo rời ra; và nhiều thành phần được ghi chú chỉ dẫn là bộ phận nào của chiếc thuyền. Mặc dù vậy, về cơ bản nó là một trò chơi lắp hình không có hình khóa, và có thể phải mất trên một thập niên - và năm năm diễn tập để hoàn thành. Nổi lên từ hỗn độn vào 1968 là một chiếc thuyền hoàng gia của triều đại thứ 4 hoàn tất có cabin. Xây dựng không có sống tàu các đà ngang của nó thỉnh thoảng được đóng nêm, nhưng phần lớn được ràng với nhau bằng hàng thước dây thừng (khi ướt sẽ siết chặt lại). Nó có chiều dài 43,4m (142 ft) và sườn ngang sàn tàu là 5,9m (19 ft); có trọng tải khoảng 45 tấn. Mặc dù sáu cặp mái chèo - có lẽ chỉ được dùng vào việc xoay chuyển chiếc thuyền có thể được dẫn dắt bằng thuyền nhỏ hơn.

Hố thuyền thứ hai

Thuyền của Khufu, như được phục chế lại là một trong những sự kiện ấn tượng nhất của ngành khảo cổ học Ai Cập; cho đến khi nó được để trong một môi trường bảo quản tránh mưa gió, tương lai lâu dài của nó vẫn còn đòi hỏi sự chuyên tâm. Trong hố của nó, các điều kiện để bảo quản hầu như hoàn hảo, các tấm ván chứa 10% hơi ẩm - không giống như nhiệt độ và sự ẩm ướt tối đa mà các xuồng mỏng mảnh phải chịu như ngày nay. Tính chất có thể bị hư hại của chiếc thuyền được khôi phục trở thành vấn đề quan trọng do điều kiện phân rã các mối nối kết của nó. Được khảo sát lại mới đây bởi một nhóm người thuộc Đại học Waseda ở Tokyo, hy vọng (có lẽ phù phiếm) là chiếc thuyền này, một ngày nào đó được khôi phục lại để theo các bạn nó lên bề mặc sa mạc, nằm dọc theo chiều dài kim tự tháp - mộ của các chủ nhân.

Một di sản khổng lồ: chiếc thuyền uy nghi của Khufu như vẽ ở trên và hoàn toàn được khôi phục lại ở bảo tàng Giza.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/217-02-633359892692656250/Dao-boi-de-tim-cau-tra-loi-Sau-1945/Nhung-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận