Uốn dặm cũng không phải là một quãng đường dài lắm. Rebecca có lần đã đi bộ hàng dặm liền trong thành phố New York – đó là khi cô không muốn phải đứng chờ chuyến xe buýt đi ngang qua thành phố, hay khi cô vàlũ bạn quyết định đi vòng qua công viên hoặc lang thang trong khu phía nam Manhattan, hoặc chỉ để xem họ có thểđi qua đi lại cầu Brooklyn bao nhiêu lần.
Nhưng bốn dặm ở New Orleans lại là một vấn đề hoàn toàn khác, khi mà cô sẽ phải đối mặt với thế giới của các hồn ma.
Lisette đã không nói dối: thành phố tràn ngập những linh hồn. Những hồn ma trong suốt ba trăm năm qua đều mặc nguyên những trang phục khi họ chết, rất nhiều trong sốđó vẫn phải chịu đựng những vết thương khủng khiếp trước khi qua đời.
Ngày thứ Bảy đó, siết chặt bàn tay Lisette, Rebecca đã được nhìn thấy tất cả bọn họ. Và cảnh tượng này thật quá đỗi lạ lùng - Rebecca chẳng thể phản ứng gìhơn được ngoài việc há hốc mồm kinh ngạc.
Có những hồn ma là người da trắng, nhưng phần nhiều là người da đen. Có người nói tiếng Tây Ban Nha, có người lại nói tiếng Pháp. Một cô bé trong chiếc váy rách rưới đang chơi nhảy dây trên đường phố, miệng hát vang bài đồng dao bằng tiếng Đức. Hầu hết họ đều quanh quẩn một mình trong khu vực nhỏ bé của mỗi người, nhưng cũng có nhiều hồn ma tụ tập thành những đám đông ồn ào pha tạp nhiều thành phần của nhiều thế kỷ khác nhau. Gần góc phố Terpsichore của tiểu khu Lower Garden, một người đàn ông da đen chỉ mặc độc chiếc quần cộc rách rưới đang đứng dựa bên cột đèn, những vết trầy xước do bị xích hoặc bị còng còn hằn lại trên hai cổ tay. Đang mải mê nói chuyện với anh ta là hai người phụ nữ da trắng, một người mặc bộ váy dạ hội mỏng manh theo kiểu cách của những năm 1920 với tấm lưng đẫm máu, người kia có vẻ là một bà mẹ yêu thích thể thao trong trang phục quần jeans và áo dài tay chui đầu m àu tía nham nhở in chữ LSU. Người đàn ông đó vẫy tay chào Lisette khi họđi ngang qua.
“Anhta là một nôlệđã bịđánh đến chết đấy.” Lisette thì thầm nói với Rebecca. “Anh ta đã ởđây gần lâu bằng tớ rồi. Không ai biết vì sao anh ta bị giết – mà anh ta cũng không thích nói về chuyện đó. Người phụ nữ trong chiếc váy xinh xắn kia đã kết giao với anh ta từ năm 1929, tớ ước chừng thế. Côta bị bạn trai mình sát hại ở ngôi nhà phía đằng kia.”
Lisette chỉ tay về một ngôi nhà nằm phía góc phố với những ô cửa sổ bịt kín.
“Còn người phụ nữ kia?”
“Cô tamới chỉởđây khoảng bốn, năm năm nay thôi. Bị đụng xe với một gã tài xế say rượu ở ngã tư đấy.”
Đi dọc theo hầm đường bộ dưới làn đường cao tốc, Rebecca nhìn thấy những cảnh tượng rất kỳ lạ. Lisette nói khoảng ba bốn mươi năm về trước, khu vực này từng là một vùng phụ cận. Bây giờ thì xe cộđã ầm ầm đi lại ở phía trên, còn khu vực trống phía dưới dành để làm bãi đỗ xe. Những hồn ma của vùng này chẳng có cách nào khác là tụ tập ởđây, dù các khu phố và những dãy nhà của họ trước kia đã không còn nữa. Một cậu nhóc có mái tóc xoăn to xù, mặc chiếc quần jeans ống loe đang nằm ngửa trên nóc một chiếc chiếc ô-tô. Và, khi Rebecca tò mò quay sang nhìn cậu ta, cô đã phải ngăn mình không thét lên: khuôn mặt cậu ta méo mó biến dạng bê bết máu trông thật khủng khiếp. Lisette nói với cô rằng cậu ta đã bị bắn chết.
Vài người đàn ông da đen trong trang phục kiểu thổ dân châu Mỹđang đi vẩn vơ quanh khu vực đường hầm; Rebecca nghe thấy loáng thoáng tiếng gì đó như tiếng hát thánh ca, rồi thi thoảng lại có đoạn rầm rập liên hồi tiếng gõ trên thùng sau ô tô.Truyen8.mobi
“Lễ hội Mardi Gras theo kiểu người Anh-điêng đấy.” Lisette nói. “Đó là những nhóm lâu đời ở khu bắc Manhattan. Một nhóm trong số này đã xuất hiện ởđây từ lâu lắm rồi, hai nhóm còn lại gia nhập với họ kể từ sau cuộc chiến đó - hình như là cuộc chiến thứ hai thì phải.”
“Đại chiến Thế giới lần thứ hai đúng không?”
Lisette có vẻ không chắc chắn lắm.
“Người ta gọi nó như thế à? Tất cả những người này đều bịđâm chết trong những trận ẩu chiến khác nhau tại lễ hội Mardi Gras. Nhưng tớ không còn gặp nhiều người trong số bọn họ nữa, thậm chí ở cả khu Đại lộ Claiborne. Có lẽ bây giờ họ không còn đánh nhau nữa.”
Một người phụ nữ da đen to béo trong bộ váy dài thượt chẳng ra hình dáng gì, khuôn mặt bầm tím khủng khiếp với chiếc mũi dập nát, gọi to về phía họ.
“Các cháu có trông thấy con cô không? Có trông thấy con cô không?”
Giọng bà ta nghe thảm thiết vô cùng, khuôn mặt bầm dập đã biến dạng đến mức một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Rebecca. Trong giây lát cô cảm thấy một sức ép buộc mình phải buông tay Lisette ra, chỉ là để những khuôn mặt kinh khủng đó phải biến mất. Rebecca không biết mình đang mong chờđiều gì ở thế giới ma quái này nữa, hoặc ngay cả khi cô thực sự tin rằng mình sẽ được nhìn thấy mọi đi ều ngoại lệ – thì ởđây, trên những đường phố New Orleans này, có quá nhiều những cảnh tượng kinh hãi và thê lương. Lịch sửđúng là một sự hỗn loạn, Rebecca thầm nghĩ.
“Không, thưa cô Ella. Cháu không nhìn thấy con của cô đâu ạ.” Lisette nói to trả lời người phụ nữđó, rồi vừa kéo tay Rebecca để giục cô đi nhanh vừa ghé lại thì thầm. “Bà ấy đã hỏi tớ như vậy suốt bảy m ươi năm nay rồi.”
Ở Khu phố buôn bán, Rebecca không biết phải hướng ánh nhìn vào đâu nữa: những người phu khuân vác từ thế kỷ XIX với những sợi thừng cháy xém quanh cổ, lẫn trong đám người đó là một thương gia bị giết chết trong một vụ cướp có vũ trang tại nơi làm việc của ông ta, và cả một bầy gái điếm trâng tráo – pha tạp đủ các thời kỳ, qua sự khác biệt về chiều dài của những bộ váy mà bọn họ chưng diện trên người có thể nhận thấy điều đó – tất cảđang vẫy tay rối rít và huýt sáo gọi Lisette. Một người đàn ông ăn mặc chải chuốt theo phong cách thế kỷ XVIII, với bộ tóc giả màu trắng và chiếc quần ống túm bằng lụa, đang đi đi lại lại trên con đường trải sỏi ở phố Julia.
“Anh ta từ Havana đến đây khi cả vùng này vẫn còn là đồn điền của một điền chủ nào đấy.” Lisette kể với Rebecca. “Người ta đồn rằng anh ta bị bệnh sốt vàng da, nhưng thực ra anh ta đã bị gã em họ của mình đầu độc vì tranh chấp đất đai. Anh ta đã kể chuyện của mình cho tớ nghe từ khi tớ chỉ mới là một hồn ma. Khi những phòng triển lãm nghệ thuật chuyển đến đây, anh ta trở nên vui vẻ hơn nhiều vì bây giờ anh ta đã có thứ gì đó mới mẻ để nhìn ngắm.”
Khá là vất vả khi đi qua con phố Canal tấp nập, vì Rebecca không thể nhận ra ailà ma và ailà người. Chẳng có ai trông thấy cô, nhưng cô có thể thấy tất cả bọn họ. Và, không như Lisette, cô phải né tránh thế giới thực tại của mình: người sống không thểđi xuyên qua cô cũng như cô không thểđi xuyên qua bức tường hay qua cổng nghĩa trang bị khóa.
Rebecca cứ lao bừa qua những người bước chắn lối mình. Khi đến Khu phố Pháp, trong đám đông nhộn nhịp của ngày thứ Bảy, thì Rebecca không thể nào chịu được nữa: cơ thể vô hình của cô cứđâm sầm vào mọi người khiến ai nấy đều hoảng hốt.
“Thứ rượu mimosa mà em uống trong bữa sáng nay mạnh thật anh ạ.” Rebecca nghe thấy tiếng một người phụ nữ chắc-chắn-là-còn-sống nói với chồng mình sau khi côlảo đảo đâm vào cô ta. “Em cứ va đập vào thứ gì đó mà em thậm chí còn không trông thấy. Em nghĩ là mình say thật rồi.”
Lisette kéo Rebecca xuống đường vì dù sao tránh ô tô cũng dễ hơn là tránh người. Một số hồn ma rất dễ để nhận ra, như người phụ nữ với mái tóc đen được uốn xoăn trong bộ váy dạ hội màu lam rũ rượi, vừa thơ thẩn đi lại trên con phố Royal vừa m ải mê ngước lên ngắm
nhìn những ban công phủ đầy hoa. Thấy cô ta không mang giày, Rebecca liền huých nhẹ Lisette.
“Cô ấy chết trước khi đường phố được trải nhựa.” Lisette giải thích. “Trước khi đường phố có banquettes.”
“Gì cơ?”
“Tức là hè phố.”
“Nên người ta m ới đi lại mà không mang giày?”
“Những cô gái thì như vậy, khi trời mưa và khi họđi dự một buổi khiêu vũ.” Lisette lôi Rebecca vòng qua một nhóm du khách đang nhìn chằm chằm một bức tượng người sơn màu bạc. “Bọn họ có người hầu hoặc nô lệ mang giày cho mình, vì đường phố rất lầy lội. Thấy những vết bùn lem quanh riềm váy của cô ta không?”
Rebecca ngoái lại nhìn, chăm chú quan sát đường viền sẫm màu quanh chân chiếc váy dạ hội lộng lẫy của cô gái đó đến mức cô bước thẳng qua một chiếc xe đạp được khóa bên cột đèn.
“Ối!” Rebecca kêu lên, bàn tay Lisette gần như tuột khỏi tay cô.
“Cẩn thận đấy.” Lisette dặn Rebecca. “Chúng ta phải rẽởđây. Nếu cứ tiếp tục đi theo lối này, chúng ta sẽ chạm mặt đám thanh niên Sicily ở khu chợ, và bọn họ vẫn còn đang hung hăng lắm. Đi dọc theo con sông cũng không hay. Có rất nhiều người chết vì đánh nhau ởđó. Còn có một tên nghiện ma túy ở Ursulines – hắn ta đã ở đó từ những năm 1950, và tớ luôn cố tránh đường đi của hắn. Hắn ta luôn lăng mạ những người da đen.”
“Hồn ma mà cũng phân biệt chủng tộc sao?”
“Hồn ma luôn là chính con người của họ. Cái chết chẳng thay đổi được điều gì. Chỉ là… kiểu như nó khiến cho con người ta bất động trong một thời khắc nào đấy. Còn những kẻ khi sống đã điên cuồng hay xấu xa thì chết đi cũng vẫn điên cuồng xấu xa mà thôi.”
Đoạn phía trên phố Rampart -nơi tiếp giáp với Khu phố Pháp - thì không có nhiều người sống nữa, nhưng có rất nhiều hồn ma. Họ là những người lính nói tiếng Tây Ban Nha đang chơi trò gì đó giống như chơi bi bằng những chiếc cúc đồng được rứt ratừ áo khoác của họ; rồi những hồn ma là nô lệ, cảđàn ông và đàn bà, già có trẻ có; một người đàn ông với khuôn mặt tái xám trong chiếc áo choàng lính đang nắm chặt khẩu súng ngắn trong tay; và một cậu thiếu niên mặt buồn rười rượi đang ngồi trên hè phố, một vết thương sậm màu rất kinh khủng đang lan rộng cả một mảng đầu của cậu ta trông như một đóa hoa lạ kỳ. Cậu ta mặc chiếc quần jeans trễ đũng và chiếc áo phông rộng thùng thình, chân mang đôi giày đế mềm nhãn hiệu Nikes.
“Năm ngoái cậu ta không có ởđây.” Lisette khẽ nói khi họ băng qua con phố. “Chắc là cậu ta mới đến. Cũng phải mất một thời gian mới quen được với việc mình là một hồn ma. Đôi khi người ta cảm thấy đau khổ vì điều đó trong một thời gian rất, rất dài. Chính vì vậy mà mọi
người để mặc cậu ta một mình, cậu thấy không?”
Rebecca đã biết công viên Amstrong rồi, vì dì Claudia lúc nào cũng đỗ xe gần phố Rampart khi dì xuống Khu phố Pháp, và trên đường về nhà họ cũng lái xe qua đây. Nhưng đến hôm nay Rebecca mới nhận ra rằng khu vực này cũng từng làmột vùng phụ cận – một khu khác nữa của người da đen đã bị tàn phá từ rất nhiều năm về trước.Truyen8.mobi
“Đó từng là Storyville.” Lisette vừa nói vừa ra hiệu. “Chắc cậu cũng biết, đó là khu vực đầy rẫy các tệ nạn. Người ta gọi đó là những câulạc bộ giải trí, nơi lúc nào cũng chơi nhạc ầm ĩ. Và cả các nhà thổ nữa.”
“Họ chơi nhạc jazz ởđây, phải vậy không?” Rebecca nhớ là mình đã được nghe điều gì đó về nơi này, hoặc hình như cô đã đọc được trong một cuốn sách viết về lịch sử địa phương. “Có phải Louis Amstrong đã lớn lên ở vùng này không? Và cả Jelly Roll Morton nữa?”
“Họ là những hồn ma à?”
“Không hẳn thế. Họ cũng chết rồi, nhưng tớ không nghĩ là họ chết ởđây. Vàtớ cũng không nghĩ cả hai bọn họđã bị m ưu sát hay gì khác.”
“Tớ nhận ra cái tên đầu tiên – hình như tớđã nghe một hồn ma ởđây kể rằng ngày xưa anh ta từng chơi nhạc với người đó. Anh ta phát âm cái tên đó là “Lewis,” theo cách phát âm của người Anglo. Tớ không rõ hồn ma đó hiện giờởđâu. Chắc hẳn ai đó đã giải thoát cái chết của anh ta rồi. Lâu lắm rồi tớ không còn thấy anh ta nữa.”
Thêm một điều nữa mà cho đến ngày hôm nay Rebecca m ới nhận ra: Lisette chỉ biết về lịch sử trước cái chết của cô ấy mà thôi. Nếu không có hồn ma nào giải thích điều gì đó cho Lisette, thì thế giới kể từ sau năm 1853 hoàn toàn là một câu đố bí ẩn và phức tạp đối với cô ấy. Lisette chỉ biết những sự kiện rất nhỏ lẻ. Thí dụ như, Lisette biết tất cả mọi điều về Storyville – một vùng chỉ phát triển sau khi cô ấy chết –là vì cô đã qua lại nơi này không biết bao nhiêu năm rồi, cũng như cô biết về Abraham Lincoln là vì cô đã được nghe rất nhiều hồn ma kể về ông ấy trong suốt cuộc Nội chiến. Nhưng khi Rebecca hỏi cô về những sự kiện lịch sử khác – ví dụ như, vụ đắm tàu Titanic, hay vụ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima – thì Lisette không hề biết một chút nào. Không có hồn ma nào từng kể cho cô ấy nghe về những chuyện đó.
“Chủ yếu bọn họ chỉ thích nói về chính mình thôi.” Lisette giải thích.
Khi họ băng qua phố Rampart và đi tắt qua một con đường chạy dọc theo công viên, Lisette bắt đầu dừng lại nhiều hơn để nói chuyện với một hoặc hai hồn ma, và mặc cho Rebecca có lên tiếng chào, không ai trong số họ nói chuyện với cô cả.
“Kia là ai thế, cô bạn?” Một người phụ nữ hỏi Lisette, gật đầu về phía Rebecca. “Cô ta vẫn chưa phải là một trong số chúng ta.”
“Chuyện dài lắm.” Lisette trả lời bà ta.
“Thế thì để sang năm kể nhé.” Người phụ nữđó vừa nói vừa khệnh khạng bước lên những bậc tam cấp của một ngôi nhà màu xanh lục rồi biến mất – theo đúng nghĩa của từ này – bằng cách đi xuyên qua tường.
“Họ có thể nhìn và nghe thấy cậu, nhưng họ không thể nói với cậu.” Lisette giải thích. “Chúng tớ chỉ có thể nói chuyện với những hồn ma khác thôi.”
“Và những người mà các cậu ám ảnh ảnh nữa.” Rebecca nhắc Lisette.
“Những người mà chúng tớ ám ảnh.” Lisette mỉm cười. “Chính chúng tớ cũng không biết là vì sao.”
“Còn bao xa nữa thì đến Tremé?” Rebecca hỏi. Dường như họđã đi bộ hàng giờ đồng hồ rồi. Rebecca thấy kiệt sức, cô choáng ngợp trước tất cả mọi thứ và mọi người cô gặp. Thế giới ma quỷ của New Orleans tràn ngập những kiểu trang phục dị thường và quái đản, những cảnh tượng đổ máu nhiều hơn cả Ngôi làng Greenwich trong cuộc diễu hành vào dịp Halloween. Nhưng chắc chắn là Rebecca sẽ không bao giờ nghi ngờ Lisette nữa. Chắc chắn cô ấy là một hồn ma.
“Đến nơi rồi!” Lisette nắm chặt lấy bàn tay Rebecca. “Nhưng chúng ta phải đi bộ thêm vài quãng nữa cơ.”
Khu vực này của Tremé trông khá giống với Khu phố Pháp, Rebecca nghĩ, với những dãy nhà san sát có cửa chớp nhỏ xinh – những ngôi nhà tranh kiểu Creole, hình như người ta gọi chúng như vậy – được sơn đủ các màu sắc rất đẹp. Đi tiếp một quãng xa hơn, kiểu dáng của các ngôi nhà không thay đổi gì nhiều, nhưng Rebecca bắt đầu nhận thấy sự khác biệt giữa Khu phố Pháp giàu sang và khu vực giáp ranh này. Những ngôi nhà trông có phần tồi tàn và ọp ẹp hơn, một sốđã xiêu vẹo và bong tróc, số khác thì rõ ràng đang ở trong tình trạng hư hại nặng nề. Những con người “thực sự” –tức là những ai không phải hồn ma – ởđây đều tụ tập ngoài phố, một số ngồi xổm hoặc đi xe đạp, còn những người khác bận rộn với việc nhà việc cửa của mình. Tất cả mọi người mà Rebecca gặp đều là người da đen.
“Tớ nghe nói đây là khu ngoại ô lâu đời nhất của người Mỹ gốc Phi trên cả nước, đúng không nhỉ?” Rebecca nói với Lisette, nhưng cô bạn của cô không đáp lời. Trông Lisette lúc này có vẻ tập trung, nhịp chân bước nhanh khi họđi dọc con phố St. Philip.
“M ấy người kia phàn nàn rằng nước ngập đến hàng chục phân!” Một hồn ma trong bộ đồng phục thủy thủ bê bết máu nói to với họ. Anh ta ra hiệu về phía một đám người đang khiêng một cuộn thảm mốc ẩm xuống những bậc tam cấp trước nhà. Rebecca không thể tin được là cho tới lúc này, đã ba năm sau cơn bão, mà họ mới dọn dẹp nhà cửa. “Tôi muốn nói với họ rằng hãy đi bộ lên kia vài quãng, phía trên phố Broad ấy và xem nước lũđã làm gì ởđó. Chẳng có gì mà họ phải kêu ca cả.”
Rebecca mỉm cười với anh ta, nhưng ánh mắt của người thủy thủ dường như nhìn xuyên qua cô. Lisette không nói một lời nào. Cô ấy cứ lặng lẽ như thế cho tới khi đột ngột dừng lại trước một ngôi nhà trông như sắp đổ.
Đó làmột ngôi nhà nhỏ bé, và chắc ngày xưa, cách đây lâu lắm rồi, từng được khoác một lớp sơn màu xanh da trời hoàn hảo, nhưng lớp sơn đó hiện giờđã bong tróc và bạc phếch bởi những năm tháng mưa gió. Chỉ có một cánh cửa chớp bị vỡ còn lại trên bản lề ô cửa; những cánh khác đã không còn. Mái nhà bị sập xuống, dấu vết còn lại chỉ là một mảnh chống thấm màu xanh lam bị rách còn dính lủng lẳng trên lỗ hổng của mái nhà.
“Nhà tớđây.” Lisette khẽ nói. Hai cô gái đứng đó ngước nhìn lên ngôi nhà.
“Đây là hậu quả của cơn bão phải không?” Trông cảnh tượng của ngôi nhà thật đau lòng. Như thể nó sắp sửa đổ sập xuống vậy.
“Không hẳn chỉ là cơn bão. M ẹ tớ là người chăm chút cho nó. Đây là ngôi nhà của bà mà. Nhưng đã nhiều năm nay ngôi nhà ở trong tình trạng này. Người ta đã mua lại nó, nhưng họ không sống ởđây – họ cho thuê và chẳng làm gì để giữ gìn nó cả. Mỗi năm qua đi trông nó lại tồi tệ hơn. Và kể từ sau cơn bão Katrina, chẳng còn một ai sống ởđây nữa. Chẳng còn ai bận lòng sửa chữa nó làm gì. Một hồn ma ở cuối phố St. Claude kể với tớ rằng có tin đồn là nó sẽ bị kéo đổ. ‘Tất cả các ngôi nhà sẽ bị kéo sập’ anh ta nói thế. ‘Xóa sạch mọi ngôi nhà dễ dàng hơn là việc dựng lại chúng cho đàng hoàng’.”
“Thật khủng khiếp!” Hẳn Lisette sẽ buồn lắm khi hàng năm trở lại nơi này và phải chứng kiến ngôi nhà thân yêu nơi mình lớn lên sẽ chỉ còn là một đống đổ nát hoang tàn. “Nhưng chẳng lẽ không có ngôi nhà nào là di tích lịch sử được bảo vệ hay sao? Ngôi nhà này chắc chắn đã gần hai trăm năm tuổi rồi cơ mà?”
Lisette nhún vai.
“Tất cả những ngôi nhà ở Storyville đều cổ xưa.” Cô nói. “Và cả khu phố trên kia nữa – cậu thấy chứ?”
Lisette đưa tay chỉ về phía trước, và Rebecca nhìn theo. Trải dài trước m ắt họ là một đoạn đường nhánh liên tiểu bang ầm ì tiếng xe cộ, bên trên là đoạn cầu vượt mà Rebecca nghĩ chính là Đại lộ Claiborne.
“Nơi đó đã từng là một con phố rất đẹp.” Lisette nói. “Với những cây sồi đại thụ, giống như Đại lộ St. Charles. Đây là trái tim của Tremé – trái tim xanh, có người gọi nó như thế. Nh ưng họđã kéo sập các ngôi nhà và những hàng đại thụấy để nhường chỗ cho con đường lớn phía trên kia chạy qua. Rất nhiều hồn ma cảm thấy thực sự bất hạnh vì điều này. Giờđây tất cả những nơi họ có thể đến chỉ là m ột khối bê-tông!”
“Thật kỳ lạ khi nghĩ đến việc lịch sửđã bị xóa sạch như thế nào.” Rebecca trầm ngâm. Cô tự hỏi không biết bao lâu nữa thì ngôi nhà của Lisette sẽ bị phá hủy không còn dấu vết, như tất cả những ngôi nhà và những con phốở Storyville cổ kính này. Truyen8.mobi
“Quá khứ không mất đi.” Lisette ngước nhìn ngôi nhà của mình. “Chỉ là cậu không còn có thể nhìn thấy nó nữa.”
“Tớ vẫn chưa biết gì về quá khứ của cậu.” Rebecca nói. “Chưa thực s ự biết.”
Lisette nhìn sang, đôi mắt cô đen long lanh và đôi má ửng hồng. Làn da cô có màu vàng sáng bóng, Rebecca thầm nghĩ. Ở phần tay áo bị xé rách, Rebecca có thể trông thấy mờ mờ một vết thâm tím nơi bờ vai Lisette.
“Có lẽ bây giờđã đến lúc.” Lisette nói. “Trên đường chúng ta trở về, nếu cậu còn bụng dạ muốn nghe, tớ sẽ kể cho cậu.”
Truyen8.mobi tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!