Chương 22 Khu vực hõn loạn, Sadou Kalin nhìn ra biển, những hòn đảo nhỏ thấp thoáng với tiếng kêu của bầy hải âu. Ông hạnh phúc nở một nụ cười trên môi, con ông sắp chào đời, niềm hạnh phúc trước giờ ông chưa dám nghĩ đến. Hay đúng hơn là, ước mơ của tất cả những người vong quốc, những người phải sống trong vùng hỗn loạn này.
Kalin từng là người của quốc gia khu vực Nam Mỹ, giờ đã trở thành một phần của vùng hỗn loạn, khu vực kinh doanh. Ông có thân hình to cao, màu da hơi vàng đen do ngăm nhiều nắng, cơ bắp săn chắc. Giờ đây ông là một ông chủ có tiếng vận chuyển rượu, nơi ông đi đến trong chuyến tàu này là khu vực hỗn loạn nhất ở vùng đất hỗn loạn. Nơi mà thế giới biết đến bởi tội ác và sa đọa, không một người dân bình thường nào dám bén mãng đến, hay hiểu theo nghĩa khác là những người dám đến đó chẳng ai bình thường cả. Họ là những kẻ nguy hiểm, mang trong mình trái tim đã nhuộm màu đen của tội lỗi.
Ông ở một nơi trong khu thương nhân, nơi rất ít sự bạo loạn và khá là an toàn. Nhưng muốn sống được ở đó không phải là thương nhân đen thì là những tên chở hàng bán mạng vì tiền. Thương nhân đen không có nghĩa là buôn bán độc phẩm hay vũ khí, họ buôn bán mọi thứ. Nhưng để vận chuyển được phải thuê những người hộ vệ, vì thế hàng sẽ tăng giá rất cao so với bên ngoài. Thương nhân là mục tiêu mà mọi người sống ở đây hướng đến, nhưng chúng đều được đắp lên từ xương và máu cả.
Tiền ở đây đồng nghĩa với ba thứ, thức ăn, vũ khí và gái. Tiền được định ra ở vùng đất hỗn loạn do ba người có quyền lực nhất cùng nhau định ra, là tiền đồng được làm từ một kim loại mới. Kim loại màu đen. Nó có cứng hơn thép, khó nóng chảy hơn vàng, thêm một điều nữa là nó không thể làm giả hay thay thế.
Ba người có quyền lực nhất cũng không hẳn là những người mạnh nhất, trong đó có một người là thương nhân, là một gia tộc lâu đời, gia tộc Celiton. Có sực mạnh quân sự và tài lực đủ để chóng lại bất kì một đế quốc nào, họ không thích sự ràng buộc của luật pháp nên chuyển đến ở vùng đất hỗn loạn, nhờ vào đó mà vùng đất này trở nên phát triển hơn và nó có thể tồn tại trong cái thế giới này.
Vùng đất hỗn loạn nổi tiếng với bốn khu vực, nó có thể là địa ngục, cũng là thiên đàn. Thứ nhất là khu thương nhân nằm dưới sự quản hạt của gia tộc Celiton, họ quản lý toàn bộ thương nhân cho cả vùng đất hỗn loạn. Hàng do họ cung cấp từ bên ngoài vào, chỉ việc bán lại cho thương nhân nơi đây, có thể nói họ là mạch máu cho cả vùng.
Thứ hai là khu vực giải trí hạng nhất trên cả thế giới, Pakado. Nơi có các loại rượu hạng nhất, gái hạng nhất đủ loại, thức ăn cũng có đủ của hầu hết các quốc gia. Nó được biết đến là thiên đàng cho sự trụy lạc, là mục tiêu hướng tới của tất cả đàn ông. Nhờ vậy, quan hệ của họ cũng lớn nhất, tin tức luôn đứng đầu thế giới.
Thứ ba là khu vực có khoa học tân tiến nhất trên thế giới, Ollybad. Nơi sản xuất vũ khí mới hay phẩu thuật người(khoa học con người). Thế giới chiến thứ ba, lần đầu tiên xuất hiện người biển đổi gen và người máy. Đánh dấu cho sự phát triển của khoa học con người, Ollybad, nơi khoa học con người đủ ngang hàng thế giới.
Vùng đất cuối cùng là vùng đất đấu tranh, Factisha, nơi các thế lực tội phạm thế giới tụ tập. Nơi này mới xem như là cốt lõi của sự hỗn loạn, gái, thuốc phiện, vũ khí tràn lan đầy đường. Nơi mà không một ai chết vì bệnh, chỉ chết vì đánh giết nhau mà thôi. Đặc biệt nhất là vùng đất này không có ranh giới cụ thế như ba vùng khác, nó trãi rộng khắp thế giới, chỉ cần họ đủ sức hoặc đủ sự hỗn loạn có thể tự xưng là một vùng Factisha.
Chuyến đi biển lần này của Kalin là đến một nơi trong Factisha này, được gọi là Sadou. Trên tàu gồm có hơn ba mươi thủy thủ đoàn, họ là những người bán mạng vì tiền. Là những người lưu lạc đến vùng đất hỗn loạn này, đủ màu da, đủ sắc tộc, nhưng không ai là kẻ bỏ đi cả. Ngồi ngắm nhìn sóng biển với những cánh chim bay lượn, nghe âm thanh của biển lòng của ông tự nhiên thấy trở nên bình yên hơn, ông thích những giây phút này. Đột nhiên một tiếng kêu làm ông giật mình, đứng dậy và đi ra xem lại tình hình.
“Có người trôi dưới biển kìa.”
“Đâu, đâu. A, không biết có còn sống không?”
“Hơi đâu mà lo, cứ mặc xác nó đi.”
“Không vớt lên xem thử à, biết đâu có gì đáng giá thì sao?”
Kalin nhìn ra theo hướng người thủy thủ kia chỉ, quả đúng thật là một người đang trôi bập bền theo sóng biển. Điều này khiến ông bâng khuâng, không biết có nên cứu hay không, nhưng nghĩ đến đứa con sắp sinh của mình. Ông mong muốn những điều tốt lành đến với nó, có lẽ nên làm chút việc thiện. Xem như tích đức cho đứa trẻ sắp ra đời.
“Đem người vớt lên xem sao.”
Cuối cùng mọi người cũng vớt lên được cái xác đó, họ tụm lại coi và kiểm tra.
“A, anh ta còn sống.” Một người kiểm tra xong, anh ta liền giật mình kêu to.
“Vậy mà vẫn còn sống.”
“Đúng là kỳ tích.”
Người được vớt lên bị thương khá nặng, một bên mặt và một con mắt trái bị thương, nơi vùng ngực cũng có vết thương có máu thịt mơ hồ. Nhưng anh ta vậy mà vẫn còn hơi thở, điều này khiến họ cảm thấy ngạc nhiên vô cùng.
“Đưa anh ta đi chữa trị đi.” Quan sát một lúc, nhận thấy người này có thể cứu, Kalin cho người đưa anh ta đi chữa trị.
“Người này không đơn giản, tại sao ông đồng ý cứu anh ta.” Một người là bạn chiến đấu nhiều năm với Kalin nói, ánh mắt ông ta thâm thúy nhìn vào người vừu được cứu lên. Khuôn mặt vẻ nghi ngại, ông có lý do chính đáng, những người như ông ta hay đúng hơn là tất cả họ đều không tin bất kỳ ai. Cũng không nên ban phát hay thương hại cho ai.
“ y, chúng ta cũng từng sống trên đầu súng, chẳng lẽ ông sợ sao.”
“Không, chỉ là không nghĩ đến lo chuyện bao đồng.” Ông ta nói chuyện thản nhiên, rút hơi thuốc trên tay, quay đầu ngắm nhìn ra biển. Vẻ mặt đăm chiêu lại xuất hiện trên khuôn mặt ấy.
“Con tôi sắp chào đời, tôi dù không tin chúa nhưng vẫn muốn làm chút việc thiện mà thôi.” Kalin cũng nhìn ra biển, giọng ông nói như muốn gởi vào biển cả.
“Hi vọng nó sẽ không khiến tội lỗi ông thêm nhiều.”
Chuyến hành trình này phải đi tới ba tháng, đã đi được gần hai phần ba quảng đường. Dọc đường không gặp phải hải tặc nào, điều này khiến Kalin nhẹ nhõm và thư thái rất nhiều.
Được cứu chữa, ba ngày sau người này tỉnh lại.
“A, anh ta tỉnh rồi.” m thanh của hộ sĩ vang lên, báo động tất cả mọi người.
Một bên mặt và một con mắt đã được băng lại, trên ngực và cả toàn thân nữa đều bị băng như xác ướp. Chỉ còn lại một con mắt, nhưng anh ta vẫn nhìn chằm chằm ra. Từng người bước vào, con mắt anh ta trở nên dáo dát, đảo khắp tất cả mọi người.
Kalin vừa nghe thông báo liền chạy tới, nơi này cũng đã đầy ấp người, ai cũng tò mò vơi thân phận anh bạn mới này. Ông ta đi tới trước, nhìn anh ta nói với giọng thân thiện.
“Chào anh bạn, thật vui khi anh đã tỉnh, không cần đề phòng chúng tôi, chúng tôi là người đã cứu anh.”
Nhưng ánh mắt ấy vẫn như vậy, không thay đổi hay giảm bớt chút đề phòng nào. Vết thương làm anh đau , nhíu mày lại mà nằm im.
“Có vẻ như anh ta không hiểu ngôn ngữ nước ngoài thì phải.” Một người lên tiếng đánh giá, gỡ thế bí của Kalin. Ông ta lập tức nói.
“Nhìn vẻ ngoài anh ta xem coi là người nước nào, tìm đúng đồng chí đến hỏi.”
“Là người châu á, nhưng còn quốc gia nào thì nhìn chưa ra.”
“Bảo tất cả ai là người châu á thì vào đây hỏi thăm họ hàng.”
Tiếp theo những người không phận sự bị đuổi ra ngoài, họ vẫn dáo dát nhìn vào phòng. Trong phòng còn bảy người, sáu người châu á và ông Kalin.
Một người thân hình to khỏe, làn da trắng đi lên trước nói.
“Xin chào, tôi tên gaper, cậu hiểu tôi nói gì không?”
Nhưng phản ứng của anh ta cũng như vậy, tiếp theo từng người đi lên thử chào hỏi.
“Xin chào, tôi là Lý Chí Hòa, cậu hiểu tôi nói gì không?”
“Xin chào, tôi là Xenphu, cậu hiểu tôi nói không?”
“….”
“Xin chào, tôi là Trần Hữu Nghĩa, cậu hiểu tôi nói gì không?”
Tới người thứ năm chào xong, anh ta có chút phản ứng, ánh mắt đã dao động một chút. Ở đây đều là người có kinh nghiệm sống chết, liền dễ dàng nhận ra sự dao động đó. Một người cất tiếng nói.
“A, hóa ra anh ta là người Việt Nam.”
“Cuối cùng cũng có người giao lưu, nếu không tìm thấy thật chẳng biết làm sao nữa. Được rồi, mấy anh giải tán đi, làm việc. Cậu Nghĩa cứ ở lại chăm sóc và trò chuyện với cậu ta.” Kalin nói xong, liền đuổi những người khác đi, chỉ để lại một người hộ sĩ và Nghĩa.
Một tuần kế tiếp, Nghĩa ở lại chăm sóc và lảm nhảm với anh ta. Một tuần trôi qua, vết thương hồi phục khá tốt, anh ta đã có thể cất tiếng nói. Cũng như mọi khi, Nghĩa vẫn lẩm bẩm chuyện này chuyện kia, nhưng nhiều hơn là chuyện của mình.
“Cậu biết không, tôi bước vào cái nghề này cũng là cuộc sống đưa đẩy cả. Lúc sống gần biên giới, chiến tranh lan tới, tôi đành phải lưu vong qua nước ngoài. Chịu bao khổ cực tìm kiếm miếng ăn, học cách người khác sinh tồn ra sao, để rồi bắt đầu bước vào cái nghề này. Lúc đầu giết người, tôi đã hoảng sợ nhốt mình ba ngày trong một hóc bò tó. Nhưng đói quá đành chui ra tìm thức ăn, dần dà riết rồi quen.”
“Khốn kiếp nhất là cái bọn khốn kia, chúng dụ tôi tới vùng đất này, xém nữa là phải bỏ mạng lại rồi. Cũng nhờ vận may tốt, mà vẫn còn sống được đến giờ. Mỗi lần sắp chết, tôi lại nhớ về quê, nhớ gia đình.”
“Đây là đâu?” Một giọng nói cắt ngang câu chuyện của Nghĩa, giọng còn yếu, hơi khàn khàn. Chất giọng đã bị tổn thương, không còn là giọng ban đầu. Mặt nhăn lại vì đau khi gắng gượng hỏi.
“A, anh bạn đã nói được rồi à.” Nghĩa bị âm thanh bất thình lình làm giật mình, theo sau anh ta vui mừng kêu lên.
“Ở đây là trên tàu, chúng tôi đã cứu cậu ở trên biển, mà cậu gặp chuyện gì để bị thương nặng như vậy?”
“Tôi không nhớ được gì cả.” Giọng của anh ta hơi yếu, mang theo một chút mờ mịt.
“Thế cậu nhớ tên của mình không?” Nghĩa cùng chau mày lại, dần trở nên nghiêm túc.
“Không nhớ được.”
“Vậy cậu cứ từ từ mà nhớ ra, chắc chỉ do chấn thương gây mất trí tạm thời. Dù sao cậu cũng phải tiếp tục cuộc sống, để tôi ra hỏi ông chủ sẽ sắp xếp cậu thế nào.”
“Cảm ơn nhiều.”
“Thôi, cậu cứ nằm nghĩ đi, tôi đi ra ngoài nói cho họ biết tình hình của cậu.”
Nghĩa đi ra ngoài, gặp một người đang hướng đến chỗ ông chủ, liền nói.
“Anh đi báo với ông chủ, người kia tỉnh rồi.”
“A, được rồi.” Người bị kêu lại hơi ngạc nhiên, ứng một tiếng sau đó đi tiếp.
Một lát sau, Kalin và mọi người tập trung lại. Nghe được tin, vừa gặp mặt họ liền hứng thú mà hỏi thăm.
“Thế nào rồi, cậu ta là ai thế?”
“Có hỏi cậu ta làm thế nào mà trôi dạt trên biển không?”
“Cậu ta bị mất trí nhớ, ngay cả tên còn không nhớ nữa là.” Gặp mọi người hỏi dồn dập, Nghĩa hơi cười khổ nói. Dường như họ chưa quan tâm ai nhiều như vậy, không biết bị gì mà tự nhiên thay đổi.
“Vậy là không biết được gì rồi.”
“ y, cứ tưởng sắp có chuyện thú vị.”
“Bác sĩ, ông thấy kết quả này thế nào?” Kalin bảo mọi người im lặng rồi quay sang hỏi bác sĩ đã chữa trị cho người kia.
“Khi khám cho anh ta, tôi cũng có lo lắng trường hợp này. Quả thật anh ta bị chấn thương não khá lớn, nguyên nhân thì không rõ. Còn vết thương trên người là do vụ nổ bom gây nên.” Một người mặc áo trắng, hơn năm mươi tuổi, là bác sĩ duy nhất của đoàn này. Giọng ông ta hơi khác lạ nói.
“Anh ta có thể khôi phục trí nhớ được không?” Nghe vậy, Kalin đã tin, kế tiếp ông hỏi thêm.
“Không biết, chuyện này ngoài khả năng của tôi.”
“Vậy phải làm sao với anh ta đây?”
“Không lẽ cho anh ta theo đoàn à?”
Nghe mọi người nói chuyện, Kalin quay sang hỏi ý kiến của ông bạn già của mình.
“Ông có kiến nghị gì không?”
“Tôi thấy nên cho cậu ta ở lại vùng Sadou đi, ông không phải quen với chủ quán rượu ở đó sao. Cho họ nhận anh ta là được.” Ông ta cũng bình thản trả lời.
Suy tư một chút, Kalin thấy đó là kết quả tốt nhất, liền đưa ra quyết định.
“Ừ, vậy đi. Nghĩa, sắp tới cậu dạy anh ta tiếng Anh, để thuận tiện nói chuyện hơn.”
“Dạ.” Nghĩa ứng một tiếng, rồi đi ra ngoài. Dù là người đồng hương gặp nhau, nhưng anh ta không phải có trách nhiệm gì với người ta. Là phúc là họa đều có số cả, anh ta chính là người đã được chiêm nghiệm nó.