Chuyện Giờ Mới Kể Truyện ngắn 6


Truyện ngắn 6
Bộ bàn ghế của ông tôi

Gọi là bộ, nhưng thực ra chỉ có một chiếc bàn và một chiếc ghế đóng bằng gỗ mít. Khi tôi lớn lên - bấy giờ nhà tôi còn ở quê - đã thấy chiếc bàn ghế ấy kê ở bên cửa sổ phía cuối giường ông tôi nằm. Trên bàn hầu như không thấy bày đặt một thứ gì, trừ chiếc ấm đất nung màu da lươn và bốn chiếc chén mắt trâu, mà họa hoằn lắm có khách tâm đầu ý hợp đến chơi mới thấy ông tôi pha trà và rót nước mời khách bằng bộ ấm chén ấy. Ông tôi hồi còn nhỏ thế nào tôi không biết, nhưng từ khi tôi lớn lên rất ít thấy ông tôi ngồi vào chiếc ghế bên bàn kê cạnh cửa sổ nhìn ra vườn. Chiếc bàn ghế ấy hầu như được dành hẳn cho ba chị em tôi, hết đứa lớn rồi đứa bé thay nhau ngồi học bài làm bài tập. Nghe đâu hồi bố tôi còn nhỏ và cô tôi còn nhỏ cũng được ông tôi, bấy giờ tai còn thính mắt còn tinh kèm học đánh vần, viết chữ trên cái bàn ghế ấy.

Hồi cả nhà tôi chuyển từ quê vào thành phố, chả là bố tôi được cơ quan hóa giá cho gian nhà cấp bốn, nguyên là nhà tập thể


của những người hộ A1. Bố tôi gọi hai vợ chồng cô tôi ở xóm trong ra, bảo:

- Cho cô chú bộ bàn ghế đấy, khênh về cho cháu nó ngồi học.

Mẹ tôi có lẽ là gần cả đời người ở với bố chồng, nên hiểu ông tôi hơn cả bố tôi, vội ngăn:

- Anh không được làm thế! Phải hỏi ông đã.

Bố tôi dường như biết mình làm thế là lộng quyền, vừa định quay vào thì ông tôi đã ở trong nhà đi ra:

 

- Nhà ở ngoài đó chẳng lẽ lại chật đến nỗi không còn chỗ kê cái bàn cho trẻ học ư anh?

Bố tôi cũng là người nhanh hiểu, nhưng sự nhanh nhảu thường đi liền với sự đơn giản, thiếu cân nhắc, ít ra là trong trường hợp này. Nên vội nói ngay:

- Ôi dào! Ngoài phố thiếu gì bàn cho chúng nó học mà phải mang cái bàn ghế cũ ở quê ra cho chật xe!

Ông tôi bỗng sa sầm nét mặt, không nói thêm nửa lời, lẳng lặng quay vào trong nhà, bỏ lại đằng sau giọng thở dài như hơi gió xoáy vào lòng bố mẹ, cô chú và mấy chị em tôi đứng ở cửa. Mẹ tôi có lẽ vẫn là người hiểu ông tôi hơn bất cứ ai ở cái nhà này, vội quay sang dịu dàng nói với cô chú tôi, và như với cả bố tôi nữa:

- Anh chị không tiếc cô chú cái bàn ghế cũ. Nhưng đấy là thứ đã gắn bó với ông gần cả đời người. Để anh chị mang ra ngoài ấy cho hợp ý nguyện của ông.

Dĩ nhiên là cô chú tôi vui vẻ nghe lời. Bởi ít nhiều thì cô tôi và cả bố tôi nữa, có lẽ đều biết bộ bàn ghế kia không chỉ đơn thuần là loại gỗ tốt bây giờ ít thấy, mà còn là một phần đời của ông tôi hiện hữu ở đó. Chỉ có tôi, một cậu bé lớn lên hầu như đã có tất cả những thứ tối thiểu cần cho cuộc sống là không biết tí gì về bộ bàn ghế mà mình tối tối vẫn ngồi học bài, nếu không có lần nhà tôi chuyển từ quê ra phố.

Ông tôi là bộ đội chống Pháp, phục viên về quê giữa lúc đang có phong trào toàn dân xóa nạn mù chữ. Ông tôi nhận dạy một lớp bình dân học vụ cho những người phần đông ở lứa tuổi trung niên mà vào thời ấy, những người tham gia xóa nạn mù chữ đều được gọi bằng cụm từ rất vinh quang "Chiến sĩ diệt dốt". Theo lời ông tôi kể thì việc ông tôi dạy học cũng chẳng khác gì mang bò cày ruộng. Trước ngày vào bộ đội ông tôi chỉ đi cày thuê cuốc mướn, có biết đến quyển vở, cây bút là thế nào. Nhưng bảy năm ở bộ đội chủ lực ông tôi học được khá nhiều chữ. Không những đọc thông viết thạo cộng trừ nhân chia ngược xuôi trôi chảy mà chữ ông còn rất đẹp, dáng chữ khoáng đạt mềm mại nét nào ra nét ấy. Đến nỗi bố tôi sau này thừa hưởng được hoa tay của ông cũng có nét chữ mềm mại khoáng đạt giống thế. Chỉ có tôi bây giờ lắm giấy vở, nhiều kiểu bút, lại học như ma đuổi là không còn viết được chữ đẹp chân phương như của ông và bố tôi nữa. Nhưng đấy là chuyện của tôi, còn giờ đang nói về
ông tôi.

Dường như ông tôi dạy học bằng nhiệt tình và sự cuốn hút của phong trào nhiều hơn là kiến thức sách vở. Nhưng gần bốn mươi học viên, toàn là những người đáng tuổi anh chị, thậm chí có người còn ở bậc cha chú nữa, trưa nào cũng sau bữa cơm nghe ba hồi kẻng là tất tả kéo nhau ra cái nhà họ ở giữa xóm, hạ cánh cửa xuống ghếch một đầu lên bậc cửa một đầu kê chồng mấy hòn gạch, ngồi học. Đấy là bàn ngồi học của học trò, dẫu có người còn ngồi xổm, người ngồi bệt ngay xuống đất thì vẫn là đã có chỗ ngồi. Nhưng còn thầy giáo thì cả buổi chỉ có đứng, hoặc lúc mỏi chân quá thì ngồi ghé xuống bậc cửa từ đường chứ cũng không có bàn hoặc và cũng chẳng có ghế cho thầy ngồi. Cứ thế ông tôi dạy bình dân học vụ được gần một năm, học viên đã thuộc mặt chữ cái. Ghép được vần và nhiều người đã viết được những bài chính tả ngắn, thì chẳng biết ai đó trong lớp học ngầm quyên góp học viên rồi đặt thợ mộc làng bên đóng một chiếc bàn và một chiếc ghế cho thầy giáo ngồi. Ông tôi buổi ấy đến lớp nhìn chiếc bàn ghế kê gần tấm cánh cửa dựng lên làm bảng viết thì xúc động đến rơm rớm nước mắt. Ông không bao giờ nghĩ mình lại có lúc được ngồi trên chiếc ghế trước cái bàn xinh đẹp oai phong như một thầy đồ thời xưa thế này. Cụ kị nhà tôi, đến đời ông tôi chưa có ai biết một chữ bẻ đôi. Ông tôi nếu không có cách mạng, rồi kháng chiến chín năm trong quân đội chắc cũng không thể nào biết nổi một chữ, chứ đừng nói đọc thông viết thạo rồi lại làm thầy giáo dạy lại cái chữ cho người làng như bây giờ. Nên niềm xúc động của ông tôi khi được ngồi vào cái bàn ghế của người dạy học lại dạy cho những người cùng trang lứa với mình ngay ở làng quê, nó có nhiều nguyên do mà không một lúc có thể nói hết được. Điều có thể nói được là ông tôi đã ngồi trên chiếc bàn ghế đó suốt những năm ông dạy bình dân học vụ, cho đến khi làng tôi được công nhận hoàn thành xóa nạn mù chữ cho toàn dân thì chính những học viên của ông đã khênh chiếc bàn ghế ấy về nhà tôi biếu ông làm kỷ vật. Từ ấy chiếc bàn ghế đóng bằng gỗ mít, loại gỗ bây giờ hiếm thấy ở đâu dùng đóng đồ, không một nước sơn, chỉ để mộc nhưng vẫn nổi màu vàng xộm rõ từng đường gân thớ gỗ, được kê bên cửa sổ ngay cuối giường ông tôi nằm, nhìn thẳng ra vườn cây đầu nhà um tùm bóng mát.

Nhà tôi ở phố có hai gian, tiếng là chật hơn ở quê nhưng so với nhiều gia đình ở nhà tập thể vẫn là rộng. Nên bàn ghế của ông tôi mang ở quê ra bố tôi vẫn kê vào phía cuối giường ông tôi nằm, giống như ở quê, chỉ khác là không có cửa sổ nhìn ra vườn. Nhưng vẫn giống ở quê, mỗi khi có người tâm đầu ý hợp đến nhà là ông vẫn mời ngồi trên bộ bàn ghế gỗ mít của ông, khách ngồi ghế còn ông tôi ngồi giường. Không bao giờ ông tiếp người nhà quê ra, hay bạn đồng niên trong khu tập thể sang chơi trên bộ bàn ghế xa lông đệm mút bố tôi mua mất tới gần bốn triệu đồng. Dường như rời bộ bàn ghế ấy ra để ngồi vào một chỗ khác, dù đó là xa lông ghế tựa đệm mút bọc da, thì ông tôi giảm nhuận sắc hay sao ấy. Bố tôi không ít lần khó chịu về việc ông tôi cứ tiếp khách ở cái bàn ghế cũ kỹ kê ở góc nhà, rất không lịch sự dưới con mắt của người phố phường. Nhưng không thể nói gì hơn ngoài một câu "Lần sau ông mời khách ra ghế xa lông ngồi cho đoàng hàng nhá." Ông tôi lẳng lặng, không nói gì, dường như sự nín nhịn ở ông không chỉ để cho riêng ông được thảnh thơi hay sao ấy. Ông không bao giờ tiếng bấc tiếng chì, với bố mẹ và chị em tôi. Ngay cả cái lần tôi tưởng ông sẽ chửi mắng bố tôi thậm tệ, nhưng cũng không.

Ấy là hôm gần ngày cưới vợ cho tôi. Bố đi làm về sau xe có buộc cái búa bổ củi. Mẹ tôi nhìn thấy liền cười:

 

- Bố thằng Hồng hôm nay lại mượn búa về bổ củi thế này, khéo trời trở bão.

Bố tôi cởi chiếc búa khỏi sau xe, vất bịch xuống vệ cửa, trêu cợt:

- Thì thỉnh thoảng cũng trở trời cho mát mẻ.

Nhưng mẹ tôi như đã đoán ra việc làm của bổ tôi, nhưng chưa tiện nói thẳng:

- Liệu có mát, hay lại oi nồng gay gắt, hả anh?

Bố tôi là người không bao giờ giữ kín cái gì lâu trong lòng, nên trong cách cư xử với ông tôi cảm thấy có phần thô thiển, không tế nhị, ít ra là trong lần này. Bố tôi bảo mẹ tôi:

- Gay gắt cái nỗi gì. Không dùng đến thì phá ra làm củi. Cái bộ bàn ghế từ đời tám hoánh để làm gì cho chật nhà!

Thì ra bố tôi mượn búa về để phá bộ bàn ghế đã thành kỷ vật đổi đời vô giá của ông tôi ra làm củi. Sao lại thế! Chẳng lẽ cuộc sống thị thành với những tiện nghi choáng lộn tủ đứng, tủ gương, xa lông, đệm mút kia đã thay thế tất tần tật giường bàn quê kiểng một thời rồi hay sao? Tôi còn ít tuổi, chưa nghĩ được điều gì sâu xa, nhưng nghe bố tôi nói phá bộ bàn ghế của ông tôi ra làm củi cũng thấy tiêng tiếc. Bởi chính bộ bàn ghế ấy đã cho tôi chỗ ngồi, điểm tì, chai sạn cả hai khủy tay, trong những tháng năm tôi tập đánh vần, học các phép tính, đến khi biết lập các phương trình với những ẩn số phức tạp. Và theo chỗ tôi biết, không chỉ có tôi là cậu ấm nối dõi tông đường mà cả bố tôi, cô tôi rồi chị và em gái tôi nữa đều ít nhiều đã ngồi trên ghế kia, tì tay xuống chiếc bàn kia mà học hành nên người. Tôi là đứa con không mấy khi làm trái ý cha mẹ nhưng lần này cũng phải lên tiếng:

- Bố ạ! Đúng là con cưới vợ thì phải có thêm một cái giường. Nhưng có nhất thiết cứ phải phá bàn ghế của ông ra mới có chỗ cho vợ chồng con nằm.

- Không vợ chồng anh nằm đâu? Trên gác đã mẹ với em. Gian ngoài là chiếc giường một của bố, lại thêm bộ xa lông với để xe pháo chật cả lối ra vào. Còn mỗi gian trong, không bỏ bộ bàn ghế cũ kỹ ấy đi sao kê nổi hai cái giường?

Khi bố tôi nói câu ấy, tôi ngước nhìn vào trong nhà thấy ông tôi đang ngồi ở chiếc giường một gian ngoài vội đứng dậy đi vào gian trong, rất giống cái lần nhà tôi chuyển nhà từ quê ra phố, khi nghe bố tôi bảo cho vợ chồng cô tôi bộ bàn ghế của ông. Nhưng tôi đã nghe tiếng mẹ bàn với bố:

- Em tính thế này có được không? Tạm thời cứ đưa bộ bàn ghế lên gác lửng kê sát tường, chỗ hai mẹ con em nằm. Sách vở của mấy bố con đang vất ngổn ngang gầm giường, nóc tủ thì thu gom lại xếp cả lên bàn vừa gọn gàng vừa đỡ mối mọt lại giữ được bộ bàn ghế của ông. Em nghĩ ông cũng chẳng sống với con cháu được cả đời, giữ lại được cái gì của ông sau này cũng đỡ ân hận anh ạ.

Hôm sau mấy chú đến giúp dọn nhà, chuẩn bị cho ngày tôi cưới vợ. Bộ bàn ghế được đưa lên một góc gác lửng, ghế chồng lên bàn. Tuy không ở kề cạnh bên giường ông tôi nằm, như bao nhiêu năm nhà tôi còn ở quê và ra phố vẫn thế, nhưng vẫn là ở trong căn nhà tôi như bao thứ vật dụng quý hiếm của mọi người trong nhà. Từ khi để bộ bàn ghế trên gác, ông tôi hay leo cầu thang lên gác lửng, khi quét trần, lúc lau nền nhà, xếp các thứ đồ dùng vặt vãnh vào một chỗ. Nhưng tôi biết, ông lên gác cái chính không phải là làm những việc đó, mà để được nhìn thấy bộ bàn ghế của ông. Có lần tôi có việc lên gác, thấy ông đang bần thần ngồi ôm chân bàn, vẻ mặt buồn buồn tiếc nuối.

Tôi cưới vợ chưa được ba tháng thì ông tôi mất, sau một cơn nhồi máu cơ tim. Lúc bàn việc tang lễ cho ông tôi có một việc ngỡ đơn giản lại thành mối lo cho mọi người trong nhà. Ấy là cái việc bày bàn thờ để mọi người đến phúng viếng ông tôi. Ở phố không thiếu gì bàn, bàn gỗ, bàn nhựa, thậm chí bàn phoóc-mi-ca đắt tiền cũng đều có cả. Mấy chú gọi bố tôi bằng anh, cũng nhà ở phố, đi thuê cả chục chiếc bàn và mấy chiếc ghế về kê kín lối ngõ ra vào khu tập thể lấy chỗ cho khách ngồi. Nhưng đấy toàn là loại bàn dài hai ba mét, rộng không tới sáu mươi phân, nếu đưa vào trong nhà làm bàn thờ đặt trước linh cữu ông tôi thì chật hết cả nhà, không còn chỗ đi lại. Bố tôi cho người đi mấy hiệu đồ gỗ lùng mua một chiếc bàn cao và chắc để làm bàn thờ không chỉ mấy ngày tang lễ mà còn mãi về sau. Nhưng đến đâu cũng chỉ thấy toàn loại nhỏ hẹp thấp nhẹ kiểu bàn đang bày la liệt ở các quán xá, chứ không lùng được chiếc nào có thể gọi là bàn thờ theo đúng nghĩa của nó. Chẳng lẽ lại đến cơ quan mượn bàn làm việc về làm bàn thờ, mà bây giờ có mấy cơ quan còn dùng bàn gỗ, phần nhiều là bàn phoóc-mi-ca hai ba buồng, trông thì choáng lộng nhưng không thể bày đặt được thứ gì nặng lên trên. Bố tôi lo quá, liền giục mấy chú khênh chiếc tủ buýp phê của nhà tôi cho quay ngang nhà làm bàn thờ vậy. Nhưng tủ buýp phê cũng dài tới hai mét mốt, rộng có sáu mươi phân, không ngắn hơn là bao so với mấy chiếc bàn mới đi thuê về để ngoài hè. Thật là ở phố người ta có đủ mọi thứ, nhưng có mỗi thứ mà đời người ai cũng phải có một lần thì lại chẳng mấy ai để tâm lo liệu trước: bàn thờ. Mẹ tôi vốn không thích ra ngoài phố, bà chán cái cảnh ra chạm cửa quay vào chạm giường, bây giờ có mỗi cái việc tưởng đơn giản với người nhà quê, lại hóa phức tạp với người thành phố, mẹ tôi sinh bẳn gắt với bố tôi:

- Anh cứ bảo ngoài phố không thiếu thứ gì nữa đi. Bây giờ thì chỉ mỗi cái bàn thờ ông cho tử tế cũng không sao kiếm ra. Biết thế này cứ ở quê đâu đến nỗi, không những bàn thờ mà cả hương án, bài vị, lư đồng cũng đều có cả.

Nghe mẹ tôi nhắc tới những đồ thờ cúng ở quê, tôi mới sực nhớ ra bộ bàn ghế của ông tôi mang ở quê ra đang để trên gác lửng. Tôi buột miệng nói ngay:

- Hay là đưa chiếc bàn trên gác xuống làm bàn thờ!

Bố tôi như trút được gánh nặng, thiếu một chút thì reo lên:

 

- Có thế mà không nghĩ ra. Cái bàn ấy mà làm bàn thờ vong linh ông thì thật đẹp. Mấy đứa mau lên gác khênh xuống đây, nhớ mang cả cái ghế nữa.

Tôi cũng không ngờ, cái ý nghĩ vừa nảy ra của tôi lại giải tỏa mối lo cho bố tôi đến thế. Ông thúc mấy cậu em họ khênh bộ bàn ghế của ông tôi xuống, rồi tự tay ông cầm giẻ ướt lau thật sạch mặt bàn, chân bàn, rồi ghế. Khi bốn người khênh chiếc bàn đặt ra ở đầu linh cữu ông tôi, bố tôi đứng ngắm nghía bảo người này lui vào, người kia lùi ra cho cân bằng chính gian giữa nhà. Quả là cái bàn dài một mét tư, rộng chín mươi phân đặt làm bàn thờ vong linh ông tôi thật đúng kiểu bàn thờ, không rộng cũng không hẹp so với cái lòng nhà chỉ có ba mét hai của nhà tôi ở trong ngõ phố. Còn chiếc ghế được để lên trên bàn, phủ tấm vải đen, đặt chiếc khung kính có lồng ảnh ông tôi để tựa vào thành ghế trang nghiêm và cao, ai vào cũng nhìn thấy ông tôi như đang ngồi mỉm cười chào mọi người.

Dưới bàn thờ trước linh cữu ông tôi, bố mẹ, cô chú và mấy chị em tôi cùng bà con thân thích nội ngoại nhà tôi, rồi khách khứa gần xa của ông, của bố mẹ và cả bạn bè của vợ chồng tôi nữa, tất cả đều cung kính khấn vái hương hồn ông tôi, một người suốt đời lo trân trọng, giữ gìn từ những cái tưởng chừng như bình thường nhất, nhưng lại là một phần đời mình hiện hữu ở đó.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/83586


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận