Dưới bầu trời xanh trong và thời tiết mát dịu, nhóm bạn tiến vào sâu hơn trong các Vương Quốc Sơn Dã. Gurgi đã băng bó vết thương của Taran và nó đỡ đau nhanh hơn nỗi đau vì bị mất thanh gươm của cậu nhiều. Về phần chàng ca sĩ, chuyện đụng độ với Dorath đã làm anh quên mất không lo lắng cho độ dài của đôi tai mình; anh hầu như không nhắc đến từ “thỏ” nữa, và bắt đầu chia sẻ với Taran niềm tin, rằng cuộc hành trình khó khăn của họ sẽ kết thúc tốt đẹp. Gurgi thì vẫn lầm bầm đầy cay cú về bọn lưu manh và chốc chốc lại quay lại dứ một nắm đấm giận dữ lên không trung. May mắn là nhóm bạn không đụng phải tên nào trong đội quân đó nữa, mặc
“Lũ cướp đê tiện!” Gurgi lẩm bẩm. “Ôi, cậu chủ nhân từ, tại sao cậu không thổi chiếc tù và hữu ích để tránh khỏi dù vẻ mặt nhăn nhó tức tối của Gurgi có lẽ cũng đã đủ để khiến bất kỳ tên cướp nào tránh xa.bị đánh đập và lừa gạt?”
“Thanh gươm rất có ý nghĩa với ta,” Taran đáp, “nhưng rồi ta sẽ tìm thấy một thanh gươm khác cho mình. Còn chiếc tù và của Eilonwy, một khi đã đem ra dùng, quyền lực của nó sẽ vĩnh viễn biến mất, không lấy lại được nữa.”
“Ồ, đúng thế!” Gurgi kêu lên, chớp chớp mắt vẻ kinh ngạc như thể một ý nghĩ tương tự chưa bao giờ hiện ra trong cái đầu bù xù của nó vậy. “Ôi, cậu chủ nhân từ mới thông thái làm sao! Liệu trí khôn của Gurgi hèn mọn này có bao giờ trở nên sắc bén được đến thế không?”
“Tất cả chúng ta đều có đủ trí khôn để thấy rằng Taran đã quyết định đúng,” Fflewddur xen vào. “Nếu ở địa vị của cậu ấy thì tôi cũng làm vậy thôi... - à, không, ý tôi là,” anh vội sửa lại, mắt liếc nhìn cây đàn hạc, “...tôi sẽ thổi cái tù và ấy cho đến khi mặt tím ngắt đi ấy chứ. Này, dừng lại! Từ từ thôi, cô bạn!” Anh kêu lên khi Llyan bỗng đột ngột nhảy bật tới trước. “Mày lại định giở trò gì nữa đây?”
Cùng lúc đó, Taran nghe thấy tiếng be be tuyệt vọng phát ra từ một bụi mâm xôi. Llyan đã nhảy tới đó, khom người xuống, vẻ như muốn nô giỡn, đuôi ve vẩy trong không khí và một bàn chân chìa ra để lôi đám gai sang một bên.
Một con cừu non màu trắng đang bị mắc trong bụi cây, và khi nhìn thấy con mèo khổng lồ, lại càng kêu be be to hơn, vùng vẫy một cách đáng thương. Trong khi Fflewddur khẽ gảy đàn để kéo Llyan đi thì Taran nhanh chóng xuống ngựa. Với sự giúp đỡ của Gurgi, cậu quỳ xuống bên bụi gai và ôm con vật đang hoảng sợ lên.
“Hẳn là con vật tội nghiệp này bị lạc, nhưng nó từ đâu đến nhỉ?” Taran nói. “Tôi không thấy có trang trại nào ở quanh đây cả.”
“Ờ, tôi nghĩ là nó biết rõ nhà nó hơn chúng ta đấy,” Fflewddur đáp lại, trong khi Gurgi ngắm nhìn con vật bị lạc và thích chí vỗ vỗ cái đầu phủ lông mượt của nó. “Chúng ta chỉ việc thả nó ra cho nó tự tìm đường về thôi.”
“Con cừu là của ta,” một giọng nói nghiêm nghị vang lên.
Ngạc nhiên, Taran quay lại và thấy một người đàn ông cao lớn, vai rộng, đang hết sức khó nhọc bước xuống con dốc đầy đá. Râu tóc ông đã điểm bạc, những vết sẹo làm vầng trán rộng của ông nhăn lại, và cặp mắt sẫm màu của ông chăm chú quan sát nhóm bạn trong khi ông loay hoay bước qua những hòn đá chìa ra. Không mang vũ khí gì ngoại trừ một con dao đi săn dài đeo ở thắt lưng bằng da, ông mặc bộ quần áo thô sơ của người chăn gia súc; chiếc áo khoác của ông được cuộn lại vắt lên vai; cái áo trong đã sờn hết mép, đầy vết nhọ và vải thì xác xơ cả. Vật mà thoạt trông Taran tưởng là một cành cây hay một cái gậy của người chăn cừu thì giờ cậu mới nhận ra là một cái nạng được đẽo gọt qua loa. Chân phải của người đàn ông bị què.
“Con cừu là của ta,” người chăn cừu lại nói.
“Sao ạ, nếu vậy thì xin ông hãy nhận lại nó,” Taran trả lời, trao con cừu cho ông ta.
Con cừu đã thôi không kêu be be sợ hãi nữa và rúc đầu một cách thoải mái vào vai người chăn cừu; vẻ mặt cau có, ngờ vực của ông đã chuyển thành sửng sốt, như thể ông hoàn toàn chờ đợi phải chiến đấu để giành lại con cừu lạc. “Xin đa tạ các vị,” một lát sau ông nói, rồi thêm vào, “Ta là Craddoc Con Trai của Custennin.”
“Rất vui được gặp ông,” Taran nói, “và giờ thì xin từ biệt. Con cừu của ông đã được an toàn rồi và chúng tôi còn một quãng đường dài phải đi.”
Craddoc, tay giữ chặt chiếc nạng của mình, quay lại để trèo lên dốc, nhưng mới đi được m ột đoạn ngắn thì Taran thấy ông loạng choạng và bị mất thăng bằng. Dưới gánh nặng ông phải mang, Craddoc vấp ngã và khuỵu một đầu gối xuống. Taran vội chạy tới bên ông và chìa tay ra.
“Nếu đường về trang trại của ông cũng gập ghềnh như những nơi chúng tôi đã đi qua,” Taran nói, “thì hãy cho phép chúng tôi giúp ông trên đường về nhà.”
“Không cần!” Người chăn cừu cộc cằn đáp lại. “Các người nghĩ ta què quặt đến mức phải dựa vào sức lực của kẻ khác sao?” Nhưng khi thấy Taran vẫn chìa tay ra, vẻ mặt của Craddoc dịu đi. “Hãy tha lỗi cho tôi,” người chăn cừu nói. “Cậu nói vậy là có ý tốt. Chính tôi đã nghĩ xấu về những lời của cậu. Tôi không quen có bạn đồng hành hay sự ân cần ở quanh vùng núi đồi này. Cậu đã giúp tôi một việc,” ông nói tiếp, khi Taran đỡ ông đứng dậy. “Giờ hãy giúp tôi một việc nữa: Hãy chia sẻ lòng hiếu khách của tôi.” Ông cười. “Mặc dù nó chỉ là một việc rất nhỏ để đền đáp ơn cứu giúp con cừu của tôi.”
Trong khi Fflewddur dắt mấy con vật cưỡi và Gurgi sung sướng ôm chú cừu trong tay, Taran bước gần bên người chăn cừu, sau phút ngần ngại ban đầu, giờ ông đã vui lòng tựa vào vai Taran trong khi con đường đổ dốc lên xuống và uốn lượn ngoằn ngoèo trước khi dẫn vào một thung lũng sâu giữa những ngọn đồi.
Taran thấy trang trại của người chăn cừu chỉ là một túp lều tranh đổ nát, với các bức tường, xây bằng đá đào từ những cánh đồng quanh đó, đã sụp xuống quá nửa. Nửa tá cừu lông bị xén lởm chởm đang gặm cỏ trên một trảng cỏ thưa thớt. Một cái cày rỉ sắt, một cây cuốc chim gãy cán, và một nhúm nông cụ ít ỏi khác chất trong cái nhà kho không có cửa trước. Nằm giữa những đỉnh đồi cao, bao quanh là những bụi cây gai rậm rạp, trang trại này nom thật tiêu điều và hoang vắng, nhưng vẫn bền bỉ bám chặt lấy khoảnh đất trơ trụi của nó như một chiến binh cuối cùng còn sống sót, cố đơn thương độc mã chống chọi lại vòng tròn quân địch đang mỗi lúc một ép chặt hơn.
Craddoc, với một cử chỉ vẻ gần như rụt rè và ngượng ngùng, mời nhóm bạn bước vào. Bên trong túp lều cũng không vui tươi gì hơn khoảnh đất cằn cỗi bao quanh nó. Có những dấu hiệu Craddoc đã cố sửa lại cái lò sưởi và lớp đá lát lò bị vỡ, cố lợp lại mái nhà và trát kín những vết nứt trên tường, nhưng Taran thấy rằng mọi công việc của người chăn cừu đều bị bỏ dở. Ở góc lều là chiếc xa quay sợi, chứng tỏ có một người nội trợ; nhưng căn cứ vào tình trạng của mọi thứ thì bàn tay người phụ nữ đã thôi quay chiếc xa từ lâu lắm rồi.
“Ông bạn chăn cừu ạ,” Fflewddur vui vẻ nói, ngồi xuống một chiếc ghế dài bằng gỗ bên cạnh cái bàn hẹp, “ông thật gan dạ vì dám sống ở cái vùng đồng không mông quạnh này. Kể ra thì cũng ấm cúng,” anh ta vội nói thêm, “rất là ấm cúng nhưng - à, ờ - cũng hơi cách xa hàng xóm, láng giềng quá.”
“Nó là của tôi,” Craddoc trả lời, mắt lóe lên vẻ kiêu hãnh. Những lời của Fflewddur dường như đã đánh thức ông, và ông cúi về phía trước, một tay giữ chiếc nạng, tay kia bám chặt vào mép bàn. “Tôi đã chống lại những kẻ muốn cướp nó khỏi tay tôi; và nếu bị bắt buộc thì tôi sẽ lại làm như thế một lần nữa.”
“Thật tình là tôi không hề nghi ngờ điều đó,” Fflewddur trả lời. “Tôi không có ý làm mất lòng ông, ông bạn ạ, nhưng phải nói là tôi hơi ngạc nhiên không hiểu ai lại muốn cướp nơi này của ông kia chứ.”
Craddoc không trả lời một hồi lâu. Rồi ông nói, “Vùng đất này trước kia màu mỡ hơn các vị thấy bây giờ nhiều. Ở đây chúng tôi sống với nhau thanh bình và không bị ai quấy rầy, cho đến khi một số lãnh chúa định cướp lấy đất đai của chúng tôi làm của mình. Nhưng chúng tôi là những người quý trọng tự do và đã tập hợp thành một đội quân chống lại chúng. Trận chiến xảy ra hết sức dữ dội và đã tàn phá rất nhiều thứ. Thế nhưng chúng tôi cũng đẩy lui được bọn chúng.” Gương mặt Craddoc tối sầm lại. “Chúng tôi đã phải trả giá đắt. Rất nhiều người trong chúng tôi đã ngã xuống, trong số đó có những người bạn thân thiết nhất của tôi. Còn tôi,” ông liếc nhìn chiếc nạng của mình, “thì có được cái này đây.”
“Thế còn những người khác thì sao ạ?” Taran hỏi.
“Dần dần, từng người một, họ bỏ nhà bỏ cửa ra đi,” Craddoc đáp lại. “Đất đai không còn bõ công giữ gìn và chăm sóc nữa. Họ tìm đường đến những vương quốc khác. Trong cảnh khốn cùng họ đành đi đầu quân hoặc nuốt lòng tự trọng và hi vọng của mình để đi làm thuê cho bất kỳ ai cho họ thức ăn và chỗ ở.”
“Vậy mà ông vẫn ở lại,” Taran nói. “Trên một mảnh đất đã bị tàn phá. Tại sao ông lại làm vậy?”
Craddoc ngẩng đầu lên. “Để được tự do,” ông nói ngắn gọn. “Để được làm chủ chính mình. Tự do là điều mà ta tìm kiếm. Ta đã tìm thấy nó ở nơi này, và ta đã chiến đấu để giành được nó.”
“Ông may mắn hơn cháu rồi, ông bạn chăn cừu ạ,” Taran đáp lại. “Cháu vẫn chưa thấy được điều mà cháu tìm kiếm.”
Khi Craddoc liếc nhìn cậu vẻ dò hỏi, Taran liền kể cho ông nghe về cuộc hành trình của mình. Người chăn cừu lắng nghe chăm chú, không nói một lời. Nhưng trong khi Taran nói, một vẻ lạ lùng hiện lên trên mặt Craddoc, như thể người chăn cừu đang cố chống lại sự hoài nghi và vượt ra khỏi nỗi kinh ngạc của chính mình vậy.
Khi Taran kể xong, Craddoc có vẻ muốn lên tiếng. Nhưng ông lại chần chừ, rồi đặt chiếc nạng dưới cánh tay, đứng bật dậy và lẩm bẩm là ông phải đi lo cho đàn cừu của mình. Khi ông tập tễnh bước ra, Gurgi liền lon ton chạy theo ông để được vui thích ngắm nhìn những con vật hiền lành.
Trời đã tối dần. Taran và Fflewddur ngồi lặng im bên bàn. “Tôi vừa kính phục vừa ái ngại cho người chăn cừu này,” Taran nói. “Ông ấy đã thắng trận chiến này chỉ để rồi lại thua một trận khác. Chính đất đai của ông ấy giờ lại là kẻ địch đáng gờm nhất của ông, và ông ấy chẳng làm được gì mấy để chống lại nó.”
“Tôi e là cậu nói đún g,” chàng ca sĩ đồng tình. “Nếu cỏ dại và mâm xôi còn lấn đất của ông ấy thêm nữa,” anh chua chát nói thêm, “thì chẳng mấy chốc ông ấy sẽ phải dỡ mái nhà ra cho cừu gặm thôi.”
“Giá mà có thể thì tôi đã giúp ông ấy rồi,” Taran trả lời. “Nhưng than ôi, ông ấy cần nhiều hơn những gì tôi có thể trao cho ông ấy.”
Khi người chăn cừu quay trở lại, Taran chuẩn bị để ra đi. Nhưng Craddoc lại nài nỉ nhóm bạn ở lại. Taran ngần ngừ. Mặc dù rất nóng lòng lên đường, cậu cũng biết rõ Fflewddur không thích đi lại lúc đêm tối; còn về người chăn cừu, vẻ sốt sắng biểu hiện qua đôi mắt của ông rõ ràng hơn lời nói của ông nhiều, và cuối cùng Taran cũng đồng ý ở lại.
Vì đồ ăn dự trữ của Craddoc không có là bao, nhóm bạn liền chia sẻ những thức ăn lấy từ chiếc túi của Gurgi ra. Người chăn cừu ăn một cách lặng lẽ. Khi ăn xong, ông ném mấy cành cây khô đầy gai vào đống lửa nhỏ, ngắm chúng bùng lên và nổ lốp bốp, rồi quay sang nhìn Taran.
“Một con cừu trong đàn của tôi đã bị lạc và được tìm lại,” Craddoc nói. “Nhưng có một con khác cũng bị lạc mà không bao giờ được tìm thấy.” Người chăn cừu nói chậm rãi và khó khăn, như thể phải cố hết sức mới có thể thốt ra được từng lời. “Cách đây đã lâu, khi tất cả những người khác đã rời khỏi thung lũng, vợ tôi nài nỉ tôi đi theo họ. Bà ấy sắp sinh đứa con đầu lòng của chúng tôi; ở nơi này, bà ấy không thấy gì khác ngoài nỗi cực nhọc và cảnh hoang vu trơ trọi, bà ấy van xin tôi vì nghĩ đến đứa con chưa ra đời của chúng tôi.”
Craddoc cúi gằm mặt xuống. “Nhưng tôi không chịu đi. Mặc cho bà ấy van vỉ, tôi vẫn nhất nhất chối từ. Thế rồi con chúng tôi chào đời. Một đứa con trai. Thằng bé sống sót; còn mẹ nó thì không. Tim tôi tan vỡ, bởi chẳng khác nào chính tôi đã giết vợ mình vậy.”
“Điều mong muốn cuối cùng của bà ấy,” Craddoc nói, giọng nặng trĩu đau buồn, “là tôi hãy đem thằng bé đi khỏi nơi này.” Gương mặt dãi dầu mưa nắng của ông nhăn lại. “Nhưng ngay đến cả mong ước ấy, tôi cũng không làm theo. Không,” ông nói thêm, “tôi nghĩ rằng, tôi đã phải trả giá bằng máu, và hơn cả máu nữa, cho tự do của mình. Tôi sẽ không từ bỏ nó.”
Người chăn cừu im lặng một hồi lâu. Rồi ông nói, “Tôi tìm cách nuôi nấng thằng bé một mình. Nhưng việc đó quá sức của tôi. Nó là một thằng bé cứng cáp, ấy thế mà chỉ chưa đầy năm nó đã đổ bệnh. Chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu, rằng mẹ nó đã nói đúng, và tôi, như một gã ngốc kiêu ngạo, đã không chịu nghe theo. Cuối cùng tôi quyết định rời bỏ thung lũng.”
“Nhưng quyết định của tôi đã quá muộn mằn,” Craddoc nói. “Tôi biết thằng bé sẽ không sống sót nổi qua cuộc hành trình. Nhưng nó cũng không thể sống sót nổi qua một mùa đông nữa ở đây. Nó như một con cừu non đã bị đem dâng sẵn cho Thần Chết rồi.”
“Nhưng rồi một ngày nọ,” Craddoc nói tiếp, “một người lữ hành tình cờ đi qua túp lều của tôi. Ông ấy là người có học vấn uyên thâm và biết rất nhiều phép chữa bệnh bí truyền. Chỉ trong tay ông ấy thì thằng bé mới có thể sống được. Ông ấy nói với tôi như vậy, và tôi biết rằng ông nói đúng. Ông ấy thương hại thằng bé và xin nuôi nó giúp tôi. Tôi rất biết ơn lòng tốt của ông ấy và đã trao thằng bé vào tay ông ấy.”
“Thế rồi ông ấy lại lên đường, đem theo con trai tôi. Tôi không còn gặp lại hay nghe nói về cả hai người nữa, và khi năm tháng trôi qua, nhiều lần tôi sợ rằng cả hai đã bỏ mạng nơi sơn dã này rồi. Nhưng tôi vẫn hi vọng, bởi vì người lạ mặt ấy đã thề mọi lời thề trang trọng nhất, rằng một ngày kia con trai tôi sẽ quay trở về với tôi.”
Người chăn cừu nhìn thẳng vào Taran. “Tên người lữ hành ấy là Dallben.”
Trong lò lửa một cành gai nứt ra kêu lách tách. Craddoc không nói gì nữa, nhưng mắt ông không hề rời khỏi mặt Taran. Fflewddur và Gurgi nhìn họ chằm chằm, không nói nên lời. Một cách chậm chạp, Taran đứng lên. Cậu thấy mình run rẩy, trong một thoáng cậu sợ rằng chân mình sẽ khuỵu xuống và cậu phải bám lấy mép bàn cho khỏi ngã. Cậu chỉ nhìn thấy Craddoc đang lặng lẽ nhìn cậu, và người lạ mặt cậu vừa gặp này giờ lại càng xa lạ hơn bao giờ hết. Môi Taran mấp máy không thành tiếng, cho đến khi rốt cuộc những lời nói cũng được thốt ra đứt quãng và cậu nghe thấy giọng mình như giọng một ai khác.
“Ông nói vậy,” Taran thì thào, “ông nói vậy, có nghĩa ông là cha cháu?”
“Lời hứa đã được giữ trọn,” Craddoc khẽ đáp. “Con trai ta đã quay trở về.”
Hết chương 13. Mời các bạn đón đọc chương 14!